Chuyển đến nội dung chính

Ngũ Đại Tặc Vương Phần 1 - Chương 2

 2. Tiểu tặc Phụng Thiên


Tôi đang bưng một chén trà xanh, ngồi trên chiếc ghế mây, nghe đến xuất thần. Trước mặt tôi là một ông lão tuổi đã vào hàng chín mươi, nửa ngồi nửa tựa trên ghế dựa, tay còn đang truyền dịch. Dù vậy, tiếng ông nói vẫn tràn đầy trung khí, vô cùng rõ ràng; chỉ nghe giọng là biết ông hẳn là người phương Bắc.


Căn phòng tôi đang ngồi, vô luận từ đồ đạc, tường vách đến sàn nhà đều vô cùng cũ kỹ, nhưng sạch sẽ tươm tất, phảng phất mùi hương cỏ cây. Ông cụ ngồi đối diện cửa sổ, trên bậu cửa đặt mấy chậu hoa tươi, hoa nở rực rỡ. Loại hoa ấy tôi chưa từng thấy, chỉ cảm giác trong từng đóa hoa toát ra một vẻ kiều mị quái lạ, khiến tôi bất giác nhìn thêm mấy lần.


Ông cụ đưa tay cầm chén trà trên chiếc bàn thấp cạnh ghế, chậm rãi nhấp một ngụm.


Tôi đã nhịn không nổi, dè dặt hỏi: “Lão gia tử à, rốt cuộc cái gọi là Ngũ Hành Chí Tôn Thánh Vương Đỉnh là gì vậy? Sao lại nói có đỉnh thì được thiên hạ, mất đỉnh thì mất thiên hạ? Chẳng lẽ trong cái đỉnh ấy có pháp bảo nhất thống thiên hạ sao?” Trong đầu tôi toàn là những hình ảnh kiểu như đèn thần Aladdin: chỉ cần mở nắp, sẽ bay ra bom laser hay vũ khí vô địch gì đó.


Ông cụ khẽ cười, nói: “Làm gì có pháp bảo! Chẳng qua chỉ là một tín vật truyền thừa mà thôi.”


Tôi nói: “Một tín vật? Cháu vẫn chưa hiểu… thế thì chẳng phải vô dụng sao?”


Ông cụ đáp: “Cậu là người của xã hội mới, không hiểu được quan niệm của thời Trung Quốc còn hoàng đế. Làm hoàng đế ấy mà, tin nhất vào chuyện trong cõi mờ mịt tất phải có thiên ý, thay triều đổi đại ắt có điềm báo. Mà Ngũ Hành Chí Tôn Thánh Vương Đỉnh chính là biểu tượng của thiên ý. Từ khi Tần Thủy Hoàng làm Thủy Hoàng Đế, cái đỉnh này đã xuất hiện rồi. Tương truyền khi ông tế trời trên đỉnh Thái Sơn, trên trời rơi xuống một khối kỳ thạch, năm màu sặc sỡ, bèn lấy đó rèn thành đỉnh. Từ đó về sau, mỗi lần triều đại thay đổi, đều xoay quanh cái đỉnh này mà xâu xé lẫn nhau, công khai cũng có, ngấm ngầm cũng có. Về sau các triều Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, không triều nào là không đoạt được cái đỉnh từ tay tiền triều rồi mới ngồi vững giang sơn. Bản thân cái đỉnh không có bản lĩnh gì, nhưng hoàng đế các đời nào dám sơ suất? Như nhà Nguyên mạnh mẽ đến thế, chỉ vì tìm không ra tung tích cái đỉnh, chưa tới mấy chục năm đã mất sạch thiên hạ. Lại có truyền thuyết rằng cuối thời Minh, Lý Sấm vương đánh vào Bắc Kinh, vốn đã cầm được đỉnh, không biết sao lại bị người ta đánh cắp, rồi vòng vèo lọt vào tay người Mãn Châu. Người Mãn vốn chẳng có cơ hội đoạt thiên hạ, vậy mà có được đỉnh rồi, dường như thiên ý nghiêng về, lại sinh ra chuyện phong lưu giữa Ngô Tam Quế và Trần Viên Viên, Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh nhập quan, từ đó thành được cơ nghiệp ba trăm năm của nhà Thanh.”


Tôi dường như đã hiểu chút ít, nhưng vẫn có vô số nghi vấn muốn hỏi, bèn chọn một câu: "Lão gia tử, vậy còn Ngũ Hành thế gia là những ai?"


Ông cụ mỉm cười, nói: “Ngũ Hành thế gia, đều là kẻ trộm.”


“Trộm?” Tôi ngẩn ra.


Ông cụ nói: "Nhắc đến Ngũ Hành thế gia, phải kể từ thời Hán. Tương truyền hoàng đế nhà Hán sợ có người trộm mất đỉnh, nên khắp nơi tìm những cao thủ vừa giỏi trộm vừa giỏi phòng trộm. Không ngờ kỹ nghệ trộm cắp cũng chia theo ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tương sinh tương khắc. Chỉ cần năm cao thủ trộm đó cùng nhau bày ra cách phòng trộm, thì cái đỉnh e rằng chẳng ai lấy nổi nữa! Thế là hoàng đế nhà Hán ký kết với những cao thủ đứng đầu ngũ hành đạo thuật ấy, phong cho họ làm Ngũ Hành thế gia, chuyên vì hoàng gia giữ đỉnh, đời đời không lo cơm áo. Tên gọi Ngũ Hành thế gia truyền xuống dân gian lại thành một cách gọi khác, gọi họ là Ngũ Đại Tặc Vương.”


“Tặc vương?” Tôi giật mình.


Ông lão gật đầu, nói tiếp: “Tặc vương cũng đâu phải dễ làm! Người trộm cắp, từ xưa hoặc vì sinh kế bức bách hoặc vì ham hưởng lạc mà bước chân vào đường trộm cắp. Đầu cơ trục lợi, ba que xỏ lá, tính toán tinh vi… đều là bản lĩnh của bọn trộm, nên lòng dạ tự nhiên hẹp hòi, chẳng được hào sảng nghĩa hiệp như nhóm lục lâm hảo hán. Vậy nên ngũ đại thế gia ấy không chỉ hục hặc với nhau, mà còn phải phòng ngừa đêm ngày những kẻ trộm thuật cao thủ mơ ước phong hào Tặc Vương này đánh lén. Tục ngữ nói, càng loạn thế thì đạo tặc càng phồn vinh, là thời điểm cực tốt để hoành hành không cần kiêng kỵ, thiên hạ nhiều ác tặc như vậy, sao chịu để thái bình thịnh thế dài lâu mãi không suy? Ngay cả người trong ngũ đại thế gia cũng thấy trông chừng giúp Thánh Vương Đỉnh này mãi thật quá nhàm chán. Trùng hợp là khi Thủy Hoàng tạo đỉnh, có tách ra năm luồng quang hoa trong kỳ thạch từ trời rơi xuống, dùng đèn miệng rồng để chỉ người. Trong miệng rồng có một hạt châu, sáng tắt cùng đèn miệng rồng; lấy hạt châu ra, dù cách xa vạn dặm cũng không ảnh hưởng gì. Ngũ đại thế gia bèn ước định với hoàng tộc: nếu ngọn đèn đại diện cho kim, mộc, thủy, hỏa, thổ của thế gia nào tắt đi, thì nhà ấy không phải giữ đỉnh nữa; lấy hạt châu trong miệng rồng mà đi, hoàng tộc không được ngăn cản. Nếu đèn sáng trở lại, hạt châu họ mang đi cũng sẽ sáng, họ phải trở về, chẳng qua lúc này đỉnh rơi vào tay ai, họ sẽ không quản nữa.”


Tôi hỏi dồn:“Vậy nếu hạt châu bị mất thì sao?”


Ông lão phá lên cười: “Mất ư? Ai mà trộm được hạt châu từ tay tặc vương thì kẻ đó chính là tặc vương mới! Ngũ Hành thế gia không phải cha truyền con nối tụ họp một nhà đâu. Mỗi thế gia giống như một môn phái, cũng có cấp bậc sư thừa.”


Tôi ồ lên một tiếng, chẳng hiểu sao lại nảy ra ý nghĩ, liền hỏi: “Lão gia tử, người nói kẻ tặc toàn xấu cả, nhưng cháu nghĩ trộm cũng có nghĩa tặc chứ? Như Cổ Thượng Tảo Thời Thiên ấy, hay soái hương Sở Lưu Hương, chẳng phải đều là người tốt chuyên cướp kẻ giàu cứu người nghèo sao?”


Ông cụ nhìn tôi, bỗng bật cười ha hả. Ông cười phấn khởi, lắc lư cả người, miệng nói: “Nói hay! Nói hay lắm! Nghĩa tặc! Nhóc con giỏi lắm! Được đấy!”


Tôi gãi đầu, không biết vì sao ông lại cười vui đến thế.


***

Tháng 1 năm 1926, do quân Nhật tiến vào Mãn Châu để viện trợ phe Phụng, Quách Tùng Linh bị xử tử (chú thích 1). Thành Phụng Thiên đầy rẫy quân Nhật, đâu đâu cũng cắm đầy 'Cờ Thuốc Cao' của bọn giặc Nhật. Trên các phố lớn ở Phụng Thiên, thỉnh thoảng lại có xe quân sự Nhật lao vun vút, ai nấy đều vội né tránh, cảnh tượng hoảng hốt khắp nơi. Mỗi lần xe quân Nhật chạy qua, mọi người đều kéo chặt cổ áo tay áo, cắm đầu chạy trốn.


(Bánh Tiêu: mấy bạn coi phim có thấy người ta dán mấy miếng thuốc cao có cái chấm tròn ở giữa không? TQ ghét Nhật nên so sánh quốc kỳ Nhật với miếng thuốc cao đó á)


Trong một góc khuất chắn gió trên phố, ba thằng nhóc độ mười ba, mười bốn tuổi, áo quần tả tơi, rúc thành một đống ngồi xổm nép vào góc tường. Mùa này ở Phụng Thiên lạnh thấu xương, ba đứa mặc chẳng đủ ấm, dù ép sát vào nhau vẫn lạnh đến nghiến răng trợn mắt.


Thằng mập đội mũ da chó ngồi giữa nói: “Mẹ nó, sao đại ca vẫn chưa quay lại.”


Thằng gầy bên cạnh vừa hà hơi vào tay vừa nói: “Không khéo đại ca xảy ra chuyện rồi, bên ngoài loạn như vậy mà.”


Thằng nhỏ tuổi nhất thì quả quyết: “Đại ca không sao đâu.”


Thằng mập gắt lên với thằng gầy: “Lão Nổ, cái mồm quạ của mày! Nói lời tốt đẹp chút được không hả?” Nói rồi nó giơ tay đập cho thằng gầy một cái.


Thằng gầy có biệt danh là Lão Súng Nổ, thằng mập chính giữa biệt danh là Quậy Xong Chạy, đứa nhỏ tuổi nhất biệt danh Khỉ Móm. Cả ba đều là lũ trẻ lang thang trong thành Phụng Thiên.


Lão Súng Nổ bị đánh đau, ôm sau đầu chửi: “Quậy Xong Chạy! Đừng có đánh người được không? Đau bỏ mẹ!”


Quậy Xong Chạy chửi lại: “Mồm quạ của mày là đáng bị đập đấy!”


Lão Súng Nổ tức phừng phừng nhưng không dám cãi, rụt cổ lại. Ba đứa tiếp tục rúc vào nhau.


Cả ba ngồi chồm hổm thêm một lúc, thi thoảng lại ngó ra phía ngã tư. Quậy Xong Chạy cũng bắt đầu nóng ruột, lầu bầu: “Đại ca đi lâu vậy rồi, hay là tụi mình cũng đi xem thử?”


Khỉ Móm reo lên: “Không được! Đại ca dặn phải chờ ở đây, không được đi đâu hết!”


Lão Súng Nổ thì tán thành ý kiến của Quậy Xong Chạy, nói: “ Khỉ Móm, lỡ đại ca thật sự gặp chuyện, tụi mình co đầu rúc ở đây thì chẳng ra chút nghĩa khí gì cả! Lão Quậy, đi coi đi!”


Quậy Xong Chạy chỉnh lại cái mũ, hít mạnh mũi một cái rồi quát: “Đi!” Nói xong đứng phắt dậy.


Lão Súng Nổ cũng đứng theo, Khỉ Móm vẫn ngồi lì, bị Lão Súng Nổ kéo dậy, mắng: “Đồ rùa rụt cổ! Gan nhỏ nhất là mày!”


Cả ba gắng lấy tinh thần, nối đuôi nhau rời khỏi góc phố, bước ra đại lộ. Mới đi chưa được mấy bước thì ở khúc quanh bỗng có một toán lính Nhật chạy ào ra, hàng ngũ chỉnh tề lao về phía trước. Ba đứa vội nép vào ven đường, nhìn toán lính Nhật chạy vụt qua, Quậy Xong Chạy chửi với theo lưng chúng: “Lũ Nhật con! Đắc ý cái con m***!”


Khỉ Móm kéo áo Quậy Xong Chạy, nói: “Lão Quậy, đi mau, đi mau!”


Ba đứa run lập cập đi tiếp về phía trước, rẽ một ngã rồi chui vào một con hẻm, dựa vào tường ngồi thụp xuống, mặt mũi đều căng thẳng, nhìn trước ngó sau. Quậy Xong Chạy ngẩng đầu lên, thấy sau lưng là một bức tường cao. Nó nói: “ Khỉ Móm, giẫm lên vai tao, trèo lên xem thử.”


Lúc này gan Khỉ Móm lại to hơn chút, nghe gọi liền đứng lên định giẫm lên vai Quậy Xong Chạy để trèo. Nó vừa đứng vững thì trong tường bỗng vang lên một trận hỗn loạn, người bên trong la hét: “Bắt trộm! Bắt trộm! Bên đó! Bên đó! Tóm lấy nó! Đánh chết nó!”


Khỉ Móm giật bắn mình, trượt chân, té nhào từ vai Quậy Xong Chạy xuống. Lão Súng Nổ xông tới đỡ nhưng bị đà kéo ngã luôn, cả ba lộn nhào một chỗ.


Cả ba vừa ngã lăn ra đất thì trên đầu tường loáng lên một bóng người. Một thiếu niên chừng mười lăm mười sáu tuổi từ trên tường nhảy vút xuống, rơi ngay sát chân họ. Cậu ta cũng đội mũ da chó rách nát, đôi mắt nhỏ nhưng rất sáng, mặt mũi lem nhem còn dính một vệt máu. Thấy ba đứa nằm dưới đất, cậu ta giật mình rồi mắng: “Sao tụi mày lại mò tới đây?!”


Ba đứa đồng thanh kêu: “Đại ca!”


Thiếu niên quát: “Sao không chịu nghe lời! Chạy mau!”


Vừa dứt lời thì đầu hẻm đã có người lao vào, chính là năm sáu gã ăn mặc kiểu gia đinh, ai nấy cầm sẵn gậy nhóm lửa, chỉ vào bốn đứa hét: “Thằng trộm đây rồi! Ở đây!” rồi xông thẳng tới.


Thiếu niên kéo Khỉ Móm dậy, bốn đứa liều mạng co giò chạy. Mấy gã phía sau đuổi sát.


Thiếu niên chạy đầu tiên, Lão Súng Nổ theo sau, Quậy Xong Chạy thân hình nặng nề nhưng cũng nghiến răng bám theo. Chỉ có Khỉ Móm rớt lại phía sau. Thiếu niên hô lớn: “Tản ra chạy! Mau! Gặp nhau ở chỗ cũ!” Phía trước vừa lúc là một ngã rẽ.


Ngay lúc đó, Khỉ Móm kêu thất thanh, trượt chân lăn ầm xuống đất. Thiếu niên, Lão Súng Nổ, Quậy Xong Chạy đều khựng lại. Tuy họ đã chạy cách bảy tám bước nhưng vừa thấy Khỉ Móm ngã, chẳng ai do dự, cả ba cùng quay lại kéo nó dậy.


Quậy Xong Chạy tức đến chửi: “Khỉ Móm! Đồ phế vật! Bọn ông chết ở đây vì mày đó!”


Vừa kéo được Khỉ Móm lên thì nó chân mềm nhũn, chạy không nổi. Thiếu niên thấy vậy thở dài, mắng: “Đã bảo đừng có mò tới mà!”


Cậu ta còn chưa dứt lời thì đám gia đinh đã đuổi tới, túm lấy cả bọn, giơ gậy quật xuống như mưa. Bốn đứa ôm nhau thành một đống, giơ tay che đầu, vừa kêu vừa khóc: “Đánh chết người rồi! Đánh chết người rồi!”


Nhóm người kia đập một hồi mới chịu buông tay, lại còn dùng chân liên tục đá, dồn bốn đứa trẻ vào một góc tường.


Cậu thiếu niên la lên: “Có trộm gì quý giá của các người đâu, trả lại là được! Đừng đánh chúng tôi tới chết! Nếu chết, hóa thành ma cũng sẽ quấy rầy các người!”


Một tên cầm gậy hét: “Mấy thằng nhãi ranh! Lại còn hỗn! Dám tới nhà Trương Tứ gia trộm đồ! Đánh chết sạch tụi bây cũng chả đủ!”


Cậu thiếu niên la: “Đừng đánh, đừng đánh! Trả cho các người rồi mà.” Nói xong, cậu rút từ trong áo ra một túi vải, ném xuống chân nhóm người kia.


Một người trung niên, dáng vẻ như quản gia, hộc tốc từ phía sau lũ tay sai tiến tới, thở hổn hển, tay chống mũ, trợn mắt, nói không ra lời. Lũ tay sai quay sang báo cáo: “Quản gia Lưu! Chính là mấy thằng nhãi trộm này! Bắt được rồi, không sót đứa nào!”


Quản gia Lưu cuối cùng mới lấy lại hơi, đứng thẳng người, chỉ tay vào bốn thiếu niên mắng: “Mấy thằng nhãi ranh này! Xem bố mày đã vất vả ra sao! Mấy đứa bây ai là đầu sỏ?”


Cậu thiếu niên vẫn cứng rắn, run rẩy đứng dậy từ đất, trả lời: “Chính là tôi!”


Quản gia Lưu nhìn cậu ta từ đầu tới chân, mắng: “Đúng là liều lĩnh! Ai sai mấy đứa tới nhà Trương Tứ gia trộm đồ?”


Cậu thiếu niên đáp: “Cháu tự ý quyết định! Ông chủ nè, chỉ trộm mấy cái bánh thôi mà! Có cần phải chuyện bé xé ra to vậy không?”


Quản gia Lưu mắng: “Chuyện bé xé ra to? Nhà Trương Tứ Gia mà cho tụi bây tự nhiên ra vào như vậy sao? Mấy cái bánh? Dù chỉ là lấy một cây kim, cũng phải đánh gãy chân tụi bây! Nào, tiếp tục đánh! Đập gãy chân bốn thằng nhãi ranh kia, để xem chúng còn dám trộm nhà Tứ gia không!”


Một số tay sai hùa theo, cầm gậy xông lên.


Cậu thiếu niên hét: “Chậm đã! Chậm đã! Các người chưa gặp tôi à? Tên tôi là Nã Phá Thiên! Nếu các người làm tôi tức giận, đảm bảo chẳng ai được yên! Đồ trả rồi, còn đánh nữa, thì khỏi mà sống nổi ở Thành Phụng Thiên!”


Cậu thiếu niên nói rất hùng hồn, chẳng hề sợ hãi. Lũ tay sai đã vung gậy, nghe vậy cũng hơi do dự, nhìn sang quản gia Lưu.


Quản gia Lưu tức giận: “Nã Phá Thiên cái gì! Đánh chết ông cố nội nhà nó! Đánh đi!” Lũ tay sai thấy có quản gia Lưu chống lưng, liền vung gậy chuẩn bị hạ xuống.


Cậu thiếu niên thầm nghĩ: “Xong rồi, chẳng lừa được bọn chúng, chắc hôm nay bọn tôi phải gặp Diêm Vương rồi!”


Cậu nhắm mắt, hai tay ôm đầu, chuẩn bị nhận một trận gậy. Nhắm lâu mà gậy không rơi, cậu hé mắt nhìn. Thấy lũ tay sai đã buông gậy, một cô bé con xinh xắn vừa nói gì đó bên tai quản gia Lưu.


Quản gia Lưu gật lia lịa, chỉ vào cậu thiếu niên mắng: “Hôm nay coi như các người may mắn! Ngày lành của Trương Tứ gia, không muốn thấy máu tanh! Mau biến đi, gặp lại là đánh lần nữa! Để các người biết sợ!”


Quản gia Lưu phun một bãi nước bọt, vẫy tay dẫn lũ tay sai đi theo cô bé con trở về.


Cậu thiếu niên thì thầm mắng theo bóng lưng họ: “Đồ chó chết! Chờ ông nội mày phát đại rồi, con gái mày bán hết vào lò gạch, con trai thì toàn đi làm bia đỡ đạn!” Nói xong còn khạc ra đất. Cậu nhìn thấy túi vải mình vừa ném ra vẫn nằm trên đường, vui trong lòng, bước tới nhặt lại.


Quậy Xong Chạy rú lên: “Đại ca, đúng là một trận nhừ tử! Tưởng chết thật rồi!”


Lão Súng Nổ cũng đứng dậy, xoa vai xoa mặt: “Có gan thì đánh một mình đi! Một đám cầm gậy đánh người, có gì mà oai!”


Khỉ Móm cũng hơi sợ, đứng lên: “Đại ca, Lão Quậy, Lão Súng, đều tại em té, đều tại em!”


Cậu thiếu niên bước tới, vỗ mạnh vai Khỉ Móm, cười: “Nói gì chứ! Có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu!” Quậy Xong Chạy cũng chen vào, cợt nhả nói với Khỉ Móm: “Hahaha, trận gậy đó coi như được mát-xa rồi!”


Cậu thiếu niên vỗ mạnh đầu Quậy Xong Chạy, mắng: “Quậy Xong Chạy, lại là mày rủ mọi người tìm tao à? Đã bảo là không được đi tìm tao mà!”


Quậy Xong Chạy nghiến răng, xoa đầu: “Đại ca nặng tay quá! Đau chết đi được! Khụ! Em cũng sợ đại ca gặp chuyện thôi.” Lão Súng Nổ cũng chen tới: “Đại ca, tha lỗi cho bọn em đi.”


Cậu thiếu niên cười, nhấc túi lên: “Hôm nay tuy khổ một chút, bị đánh một trận, nhưng tao hứa sẽ chia cho bọn mày những cái bánh ngon, cũng coi như được no bụng một bữa!”


Quậy Xong Chạy, Lão Súng Nổ và Khỉ Móm nhìn túi bánh trong tay cậu thiếu niên, nuốt nước bọt, reo hò: “Đại ca anh hùng! Đại ca anh hùng!”


Cậu thiếu niên này chính là thủ lĩnh của bốn đứa trẻ lang thang, vô danh, sống lâu ở thành Phụng Thiên. Ban đầu cậu cái tên rất bất nhã: “Họa Tiểu Hài”, nhưng cậu đã tự đổi thành -- Hỏa Tiểu Tà.


Bốn đứa trẻ lang thang này thường xuyên bị người ta bắt nạt, ba ngày hai buổi bị ăn đòn đã là chuyện như cơm bữa, nên đều có kỹ năng chịu đòn, biết cách bảo vệ chỗ hiểm của mình. Vì vậy, dù vừa bị đánh một trận, toàn thân đau ê ẩm, mỏi rã rời, nhưng cũng chỉ là vết thương ngoài da, không có gì nghiêm trọng. Chúng vừa nắn bóp, vừa xoa, vừa đấm chân, kéo tay cho nhau, coi như ổn, rồi dìu nhau rời khỏi chỗ đó càng nhanh càng tốt.


Bốn người dò hướng, đi theo đường mương nhỏ ven lối, tránh người, đi nhanh về nơi ẩn náu. Chỉ khi trời tối, chúng mới tới vài căn nhà tranh cũ nát ở vùng đất hoang phía Bắc thành, quan sát xung quanh thấy không có ai, mới chui vào. Lúc này bọn chúng đã đói lả, bụng đói kêu réo, ba đứa Quậy Xong Chạy, Lão Súng Nổ, Khỉ Móm đều nhìn túi đồ trong tay Hỏa Tiểu Tà mà nuốt nước bọt. Chúng đều hiểu quy tắc: không ai được ăn nếu đại ca Hỏa Tiểu Tà chưa lên tiếng.


Ở vùng Phụng Thiên, Đông Bắc, quy tắc làm ăn trộm là như vậy: nếu trộm được đồ ngon, tiền bạc từ nơi khác, trên đường không được chia ra, không được phô trương, phải nhanh chóng về hang ổ mới được phân chia. Trong giới trộm có câu: đồ ăn trộm vừa lấy được thường còn hướng về chủ cũ, tìm cách chạy đi; nếu không có biện pháp đảm bảo, rất dễ xảy ra sự cố.


Ngay cả những đại đạo tặc ở Đông Bắc, trộm được gì cũng đều buộc chặt, bọc kín, chạy hết sức, tuyệt đối không dám đem ra khoe dọc đường.


Hỏa Tiểu Tà và bọn chúng từ nhỏ để sống còn thường trộm gà trộm chó, nên tất nhiên hiểu những quy tắc này. Chúng vừa ra ngoài đã bị đánh một trận, càng không dám cẩu thả, dù thèm mà nuốt nước bọt cả bụng, cũng chỉ đợi về nơi trú ẩn mới tính cách dùng.


Hỏa Tiểu Tà nhìn Quậy Xong Chạy, Lão Súng Nổ, Khỉ Móm như vậy, hiểu ý, cho chúng co về góc giường rơm, tự đi thắp đèn dầu rồi quay lại, cùng chúng ngồi chụm vào một chỗ. Hỏa Tiểu Tà để túi điểm tâm ở chính giữa, cúi đầu lẩm bẩm: “Không phải tao trộm mày, mà là chúng ta có duyên, đã đến thì yên tâm, tao sẽ đối đãi tử tế.”


Việc Hỏa Tiểu Tà tự nói tự nghe như vậy cũng là một quy tắc trong giới trộm: đồ trộm về thường mang theo oán khí, người trộm phải an ủi một chút mới dùng được, nếu không, đồ trộm vẫn mang oán khí, sẽ gây họa. Nếu trộm tiền, thường phải “đánh tiền”: dùng răng cắn, đạp giày, phơi nắng, hơ lửa, ngâm nước, tùy thời mà làm. Nếu trộm đồ ăn, quần áo, thì dùng lời an ủi, để ăn không hại sức, mặc không bị bắt.


Vì vậy, bọn Hỏa Tiểu Tà coi túi điểm tâm như cún con mà dỗ, mất nửa buổi mới xong, Hỏa Tiểu Tà hô: “Được rồi! Ăn thôi!” Cả bọn vui mừng. Hỏa Tiểu Tà mở túi, chia từng miếng cho mọi người.


Nhà Trương Tứ Gia là một trong những gia tộc giàu có nhất Phụng Thiên, được cho là quan hệ mật thiết với đầu lĩnh quân phiệt Đông Bắc Trương Tác Lâm, là người có thể hô mưa gọi gió ở Phụng Thiên, nên điểm tâm nhà ông ta cũng cực kỳ tinh xảo. Dù đã được nhét vào túi, hỏng, dơ bẩn, vẫn không ngăn được bọn họ ăn ngon lành. Quậy Xong Chạy ăn vội, nghẹn đến trắng mắt, vẫn kêu: “Ngon quá! Thật là ngon chết được!”


Lão Súng Nổ vừa ăn vừa khóc, Hỏa Tiểu Tà tát qua một cái: “Ăn thì ăn, khóc cái gì?” Lão Súng Nổ lau nước mắt, nói: “Đại ca, ăn đồ ngon thế này khiến em nhớ bố mẹ, đời này chắc họ chưa từng ăn đồ ngon thế này đâu.” Khỉ Móm còn nhỏ, nghe Lão Súng Nổ nói, nước mắt cuồn cuộn, hai hàng lệ ồ ạt chảy vào miệng, nhưng Khỉ Móm vẫn không ngừng, vẫn ra sức nhai nuốt, dù nuốt cả nước mắt vào cũng không nói gì.


Quậy Xong Chạy bình tĩnh lại, mắng: “Lão Súng! Khỉ Móm! Hai đứa bây hèn nhát! Ăn đồ ngon mà thế này! Thật không có bản lĩnh!” Rồi quay sang Hỏa Tiểu Tà: “Đại ca, anh có thấy không…” Thấy Hỏa Tiểu Tà cũng buồn bã, Lãng Đệ Bôn không dám nói thêm. Cậu ta từ nhỏ mồ côi, không hiểu cảm giác của Lão Súng, Khỉ Móm và Hỏa Tiểu Tà.


Bốn cậu bé im lặng một lúc, Hỏa Tiểu Tà thu lại vẻ phiền muộn trên mặt, đổi sang vẻ kiên nghị, cười: “Sau này anh nhất định cho mấy đứa sống tốt! Ngày nào cũng có rượu thịt, ra đường ngồi xe sang! Mấy đứa thấy sao?”


Lão Súng Nổ, Khỉ Móm, Quậy Xong Chạy đồng thanh: “Tốt! Nghe đại ca! Nghe đại ca!” Nói xong, bọn họ mới hăng hái lên, vừa ăn điểm tâm vừa mơ mộng làm giàu, nổi danh.


Lão Súng Nổ nói: “Chờ em giàu rồi, ,mỗi ngày em sẽ ăn toàn mỡ lợn, ninh với bún, vừa đưa vào miệng là tan ngay!”


Quậy Xong Chạy mắng: “Chỉ có thế à? Nếu là tao, tao sẽ mời nhóm Tiểu Đức Trương nổi tiếng Phụng Thiên hát Cát kịch, hát qua cầu là qua cầu, một trăm tám mươi lần, mỗi ngày mỗi khác! Khỉ Móm! Mày thì sao?”


Khỉ Móm nghĩ một lúc: “Khi em giàu, em sẽ xây một ngôi nhà lớn, cho những đứa như chúng ta ở Phụng Thiên vào, không phải đói rét nữa, cũng không phải đi ăn trộm bị đánh.”


Quậy Xong Chạy đẩy Khỉ Móm một cái: “Hì, mày thật có nghĩa khí!” Lão Súng Nổ cũng nhào qua Khỉ Móm, nói: “Thằng nhóc mày còn có lòng tốt thế này đấy à! Để tao nhìn xem mày rốt cuộc có giống Phật Tổ không!” Cả ba lập tức ầm ĩ vui đùa.


Quậy Xong Chạy rụt cổ cười rời khỏi cuộc chiến, thấy Hỏa Tiểu Tà trầm ngâm, hỏi: “Đại ca, anh đang nghĩ gì vậy?”


Hỏa Tiểu Tà nói: “Chẳng nghĩ gì cả.”


Lão Súng Nổ và Khỉ Móm ngừng đánh nhau, nhìn Hỏa Tiểu Tà. Lão Súng Nổ hỏi: “Đại ca, nói đi, nếu anh giàu, anh muốn làm gì nhất?”


Hỏa Tiểu Tà nói: “Chẳng biết muốn làm gì.”


Khỉ Móm chen đến một bước nói: “Đại ca, anh cứ nói đi, chắc anh đã nghĩ kỹ rồi.”


“Đúng, đúng!” Quậy Xong Chạy reo lên.


Hỏa Tiểu Tà nhìn mọi người, gãi đầu, cười ngây ngô: “Thật ra… nếu nói ra, bọn mày cũng đừng cười.”


“Nói đi, nói đi, hứa không cười!” Bọn họ đồng thanh.


Hỏa Tiểu Tà chậm rãi nói: “Nếu tao giàu, tao… tao muốn tìm…” Cậu ta vừa nói tới đây, cánh cửa dột của căn nhà bị người ta oành một tiếng đá văng ra.


Vừa thấy một gã đàn ông mỏ nhọn mặt khỉ, khoác chiếc áo da chó, bước thẳng vào. Sau lưng hắn còn có hai tên trông cũng chẳng phải hạng tử tế. Hắn đá cửa xông vào, lập tức khiến bọn Hoả Tiểu Tà giật thót. Đợi đến khi nhìn rõ là ai, cả bốn đứa đều biến sắc, sợ đến đờ người.


Gã kia chửi: “Mấy con chó con! Chui rúc ở đây tưởng bố mày tìm không ra chắc?”


Hoả Tiểu Tà vội đáp: “Tề lão đại, bọn em định quay về ngay đây mà!”


Gã đàn ông ấy chính là lão đại thực sự của bốn đứa, tên Tề Kiến Nhị. Mấy năm trước Hoả Tiểu Tà bị hắn thu nạp, từ đó đến nay bọn trẻ chẳng ít lần bị hắn xúi giục đi làm mấy chuyện trộm cắp lén lút. Tề Kiến Nhị bản tính mê cờ bạc, mà vận đỏ thì chẳng bao giờ thấy. Gần đây hắn thua sạch, nên ngày nào cũng thúc bọn trẻ lang thang dưới tay mình đi trộm tiền về nộp.


Mà dạo này trong thành Phụng Thiên, vì Quách Tùng Lăng khởi binh đối đầu Trương Tác Lâm, quân Nhật lại kéo vào một đống, chiến sự căng thẳng. Nhà nhà đóng cửa, người buôn bán cũng tránh loạn, không dám vào thành. Bởi thế Hoả Tiểu Tà và đồng bọn đã nhiều ngày chẳng kiếm được gì.


Trong bốn đứa, Hoả Tiểu Tà là “đệ tử đắc ý” nhất của Tề Kiến Nhị, lại còn cầm đầu cả bọn. Tề Kiến Nhị coi như truyền cho nó “chân truyền”. Tiểu Tà gan lớn nhưng cẩn thận, tay chân lanh lẹ. Nếu chỉ nói về khoản móc túi, e rằng nó đã thuộc hàng cao thủ trong đám trẻ lang thang ở Phụng Thiên.


Vốn mỗi ngày bọn chúng đều phải về “Lầu Chuột” của Tề Kiến Nhị để điểm danh. Nhưng gần đây chẳng có thu hoạch, bị hắn tát không biết bao nhiêu bận, khiến Hoả Tiểu Tà hận thấu ruột, mà cũng chẳng dám chống lại. Ở Phụng Thiên, giới trộm cắp ai cũng biết rõ ai. Hệ thống phân chia theo bậc “trên dưới”: hạng như Tề Kiến Nhị dẫn dắt trẻ con gọi là “thượng ngũ linh”, còn bọn trẻ như Hoả Tiểu Tà là “hạ ngũ linh”. Hạ ngũ linh mà không có đại ca che chở, đừng nói trộm cắp, ngay cả muốn quay đầu làm việc tử tế cũng sẽ bị người ta bủa vây đánh chết. Tục ngũ hay nói: Lên thuyền tặc thì dễ, xuống thuyền tặc mới khó, đó là đạo lý này.


Thời dân quốc loạn lạc, chiến hỏa khắp nơi, quần hùng cát cứ, nghề nào cũng phải kết bè kết hội, đương nhiên làm tặc cũng không ngoại lệ. Hơn nữa, càng là nghề nghiệp thấp hèn như làm trộm, ăn mày, cướp bóc, hắc ác bang hội, thổ phỉ cướp đường… lại càng cần kết đoàn, giang hồ một mạch, không thể rời xa, đồng sinh cộng tử, trừ phi ngươi đã đứng đến hàng quản lý lớn, chủ tiệm lớn, thành thạo nghề, có thể mang vai vế “cắm nhang nhận tổ”, thì mới dám nói một câu “bố mày rửa tay gác kiếm”, ra dáng rút lui.


Hoả Tiểu Tà cũng từng suy xét đến chuyện dắt bọn Quậy Xong Chạy bỏ trốn, thoát khỏi tay Tề Kiến Nhị. Nhưng loạn thế như vậy, thành Phụng Thiên còn coi như có miếng cơm. Bỏ đi rồi biết chạy đâu? Nơi khác e còn hung hiểm hơn. Giới trộm cắp, tục gọi “Vinh Hành”, kỵ nhất là người lạ nhập hội: sợ bắt một đứa khai ra cả ổ. Đi nơi khác nếu vẫn làm nghề này thì phải nương vào bang phái địa phương, mà đã nương thì phải chịu nghi thức “xuyên tam đao”: một đao vào đùi, một đao vào vai, một đao nữa vào chân còn lại, lại phải đâm cho chuẩn, cho sâu, không được lệch. Có thế người ta mới tin ngươi là kẻ có nghĩa khí.


Quy củ trong nghề trộm nhiều lắm, tạm gác lại, về sau nói tiếp.


Tề Kiến Nhị thấy bọn Hoả Tiểu Tà mãi không về điểm danh, tức điên, liền dẫn hai người đến lùng. Những chỗ mà bốn đứa có thể trốn, hắn còn rõ hơn cả chúng. Từ xa thấy mấy căn nhà đổ nát le lói ánh sáng, hắn lén lại gần, quả nhiên nghe thấy bọn trẻ bên trong đang nói chuyện, liền giơ chân đá cửa, xông vào bắt.


Nghe Hoả Tiểu Tà còn dám cãi, hắn tiến lên một bước, “bốp” một cái, tát thẳng cho nó ngã nhào, chửi: “Còn không biết tình cảnh của mình à! Còn dám cãi!”


Hoả Tiểu Tà trúng một bạt tai mặt mày choáng váng, ngã lăn xuống đất, đám Quậy Xong Chạy hốt hoảng đỡ. Tất cả mọi người là vẻ mặt sợ hãi nhưng chẳng dám phản kháng chút nào, co cụm vào nhau nhìn Tề Kiến Nhị.


Hoả Tiểu Tà trúng bạt tai này trong lòng uất hận nhưng không dám lộ ra, chỉ thầm mắng: "Tề Chuột! Mày dám đánh ông nội mày, sau này nhất định trả gấp bội! Ôi! Sao Tề Chuột tìm ra được chúng ta nhanh vậy!"


Tề Kiến Nhị xoa xoa tay, đột nhiên mũi hít hửi, nhìn quanh khắp nơi, nói: “Sao nồng mùi mỡ thế này?”Tề Kiến Nhị ngửi đông ngửi tây, ánh mắt nhanh chóng rơi bên khóe miệng bốn đứa. Đám Hỏa Tiểu Tà ăn vui vẻ, cạnh khóe miệng đều còn dình vụn bánh. Tề Kiến Nhị hừ một tiếng: “Mấy đứa ranh con! Không về điểm danh! Trốn ở đây ăn vụng?”


Thân phận“Thượng ngũ linh” của Tề Kiến Nhị không phải hư danh. Dân trộm mắt sắc như dao. Hắn bước lên, giật phăng cái túi bánh giấu ở chân bọn trẻ, lườm cả đám một cái, mở ra, moi một miếng bánh lên ngửi.

“Mỡ dùng nặng thế này… không phải bánh nhà thường dân.” Nói xong cắn một miếng, nhai nuốt.


Sắc mặt hắn trầm xuống, quăng miếng bánh vào túi, bóp chặt, chỉ mặt bọn trẻ quát: “Khai! Trộm bánh ở nhà ai! Nói dối nửa chữ tao bẻ gãy chân!”


Quậy Xong Chạy, Lão Súng Nổ, Khỉ Móm đều nhìn sang Hoả Tiểu Tà. Tiểu Tà biết giấu cũng vô ích, nuốt nước bọt: “Là… là điểm tâm của nhà Trương Tứ Gia.”


“Trương Tứ Gia? Bọn mày mà trộm được bánh nhà Trương Tứ Gia? Dám vào nhà ông ấy trộm đồ á?” Tề Kiến Nhị hoàn toàn không tin


“Đúng vậy, là của nhà Trương Tứ Gia.” Tiểu Tà uể oải đáp.


“Mẹ nó! Vậy mà còn toàn mạng về đây? Khai mau! Trộm kiểu gì?” Tề Kiến Nhị dường như cảm thấy vô cùng hứng thú  với việc có thể trộm được đồ nhà Trương Tứ Gia


"Tường vây nhà Trương Tứ Gia có một cây cổ thụ cổ họng cong, từ chạc cây có thể đu đến mái hiên, chỗ đó đủ cho một người bò qua. Bò chừng một trượng mấy, tránh được người tuần hành, có một tấm ván bị lỏng, chui vào xà nhà. Rồi men theo mùi thơm mà tìm đến phía trên đại điện thờ Phật. Trong đó đông người qua lại, bọn họ bận rộn đi ra đi vào tận một canh giờ mới vắng. Lúc đó nó dùng dây thắt vòng, thả xuống, cẩu bánh lên." Hỏa Tiểu Tà Nó nói qua loa, nghe thì nhẹ tênh, nhưng thực ra cuộc đột nhập ấy hiểm nghèo vô cùng, chỉ riêng cú đu từ chạc cây sang mái hiên, nếu không phải Hỏa Tiểu Tà đác cược tính mạng, cũng khó mà làm được. Chuyến này trắc trở, không thể chỉ vài ba câu của Hỏa Tiểu Tà mà kể hết được.


Trong khi Hỏa Tiểu Tà nói, Tề Kiến Nhị lắng nghe cực kỳ cẩn thận.


Hoả Tiểu Tà nói tiếp: "Cứ như vậy. Lúc ra ngoài thì sơ ý một chút, lúc từ mái hiên lên cây, để họ phát hiện, truy đuổi đến sân ngoài, còn quất cho bốn đứa một trận bằng gậy. May lúc ấy có cô bé nha hoàn nói hôm nay là ngày lành của TrươngTứ Gia, nên mới tha mạng, cũng không thu lại túi bánh.


Hoả Tiểu Tà ngước nhìn thì Tề Kiến Nhị đang ngẫm nghĩ chuyện gì đó. Nó gọi một tiếng: “Tề lão đại, em kể xong rồi.”


Tề Kiến Nhị lúc này mới hoàn hồn, sắc mặt trở nên kỳ quặc: “Hỏa Tiểu Tà, mày nói thật chứ?”


Hoả Tiểu Tà nói: “Tề lão đại, em mà bịa nửa câu thì để em chịu thiên đao vạn quả.” Ba người Quậy Xong Chạy , Lão Súng Nổ , Khỉ Móm cũng gật đầu lia lịa. Quậy Xong Chạy nói: “Tề lão đại, bọn họ đánh mạnh lắm, suýt giết bọn em rồi.” Lão Súng Nổ cũng chen vào: “Đúng đó, Tề lão đại xem mặt em này, nửa bên còn sưng đây.”


Tề Kiến Nhị gật gù một tiếng: “Hôm nay bố tha cho tụi mày! Đứng dậy, đi theo tao!”


Bốn đứa không ngờ lại dễ dàng thoát nạn như vậy, mừng rỡ vô cùng. Mặc kệ Tề Kiến Nhị đang mưu tính gì, cả bọn vội vàng đứng lên, lẽo đẽo đi theo Tề Kiến Nhị.


Tốc độ đi của Tề Kiến Nhị rất nhanh, bốn người Hỏa Tiểu Tà trên người đau ê ẩm, khổ sở đi theo sau, Hỏa Tiểu Tà nhìn dọc đường, thấy không phải hướng về trụ sở “lầu Chuột” của Tề Kiến Nhị, nhịn không được bước lên một bước hỏi: “Tề lão đại, không về lầu Chuột ạ?”


Tề Kiến Nhị mắng: “Bớt nói nhảm! Cứ ngoan ngoãn đi theo!”


Hỏa Tiểu Tà cũng không dám hỏi thêm, nghĩ cái dáng vẻ thần thần bí bí này của Tề Kiến Nhị, tám phần không có chuyện gì tốt, từ khi theo Tề Kiến Nhị đến giờ, Hỏa Tiểu Tà đã từng gặp được chuyện tốt bao giờ đâu, cho nên cũng chẳng buồn đoán xem Tề Kiến Nhị muốn dẫn họ đi đâu.


Cả bọn một đường gấp gáp đi liền một canh giờ, mới đến trước một căn nhà ở cửa thành phía đông ngoại ô Phụng Thiên, Tề Kiến Nhị bảo hai người đi cùng tản ra canh chừng, rồi dẫn bốn người Hỏa Tiểu Tà đến trước cửa viện. Hỏa Tiểu Tà nhìn một cái, bất chợt nhớ ra nơi này cậu từng đến, đó là chỗ ở của Lưu Phùng Bảo, bậc 'đại thạo nghề' trong cái “Vinh Hành” ở Phụng Thiên (cách nói tao nhã chỉ việc trộm cắp). Lưu Phùng Bảo trong giới đạo tặc Phụng Thiên lại được gọi là “Tam Chỉ Lưu”, hai tay không biết vì gặp phải bệnh tật gì từ nhỏ, chỉ còn ba ngón là ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, vậy mà luyện ra dị thuật ăn trộm, có thể ép cả bàn tay cùng ba ngón đó lại thành dạng hình mũi dùi to cỡ cổ tay, đầu ngón tay thì nhỏ dài như mũi dùi ba ngạnh mang theo bên mình , tinh thông trong việc lấy đồ nhỏ quý giá trên người người khác.


Phải biết rằng những kẻ ăn trộm tài vật của người đi đường, trộm đồ to thì không khó, khó nhất chính là những vật nhỏ, theo tục ngữ giới trộm cắp: “Nhỏ một hào, hiểm năm phần; trộm mũi kim, mới xưng thánh!” Nghĩa là, vật càng nhỏ một chút, muốn không bị phát hiện mà nhanh chóng xuống tay được thì mạo hiểm tăng lên năm phần; nếu có thể trộm được vật nhỏ như mũi kim trên cơ thể người ta, thì là bậc thánh thủ rồi! Nghĩ thử xem, thứ nhỏ bằng đầu kim, đặt trên bàn bảo bạn dùng nhíp gắp cũng phải hết sức cẩn thận, tập trung tinh thần, huống hồ là trộm trên người, giấu trong lớp áo?


Tam Chỉ Lưu tuy chưa đạt đến mức trộm mũi kim, nhưng nghe nói ông ta có thể lặng lẽ lấy viên ngọc hay mã não gắn trên hoa tai phụ nữ mà không bị phát hiện, chuyện đó đã khiến Hỏa Tiểu Tà cảm thấy khó tin lắm rồi!


Hỏa Tiểu Tà là “hạ ngũ linh” bậc “phẩm nhị”, tức thứ hai trong hàng hạ ngũ linh, chính là do Lưu Phùng Bảo Tam Chỉ Lưu đích thân cấp linh cho cậu ta, Hỏa Tiểu Tà sao dám không nhớ rõ trụ sở này?


Tề Kiến Nhị đến trước cửa, nhìn quanh không có ai, tiến lên gõ hai ngắn hai dài kiểu “bái sơn khấu”, quay đầu trừng mấy đứa Hỏa Tiểu Tà một cái, thấp giọng chửi: “Đứa nào cũng không được nói bậy!” Hỏa Tiểu Tà bọn chúng đều nhanh chóng gật đầu, lúc này ai cũng hiểu Tề Kiến Nhị tới gặp người vô cùng quan trọng.


Tề Kiến Nhị vừa chửi xong, đã nghe trong sân truyền ra tiếng bước chân, người kia đi đến cửa, cũng không mở cửa, chỉ có tiếng giọng một bà lão vang lên: “Đêm tối đèn tắt, có chuyện gì mà giờ này còn tới? Ngủ rồi ngủ rồi!”


Tề Kiến Nhị vội ôm quyền, hết sức cung kính nói: “Gió cao trăng tròn, kẻ từ thành bắc là Tề Nhị Cổn Tử đến thắp nến cho lão gia tử.”


Bà lão bên trong “ồ” một tiếng, hỏi: “Không mang bánh trái đến sao?”


Tề Kiến Nhị nói: “Còn chưa trồng được! Chưa có nổi bánh ngọt ấy


Hai người nói nghe như lạc đề, thực chất là hắc thoại trong giới vinh hành Phụng Thiên, đổi ra bạch thoại thì như sau:


Tề Kiến Nhị: “Con là Tề Nhị Cổn Tử ở phía bắc thành, có chuyện lão gia tử muốn biết, không dám chậm trễ, vội đến bẩm báo.”


Bà lão: “Nếu bên người anh có rắc rối thì đừng vào đây.”


Tề Kiến Nhị: “Tuyệt đối không! Con lấy cái đầu ra thề!”


Nói tới đó, bà lão mới mở cửa, cả bọn cúi đầu bước nhanh vào sân.


Bà lão đóng cửa lại, nhìn bọn Hỏa Tiểu Tà một lượt, ánh mắt sắc lẻm, khiến Hỏa Tiểu Tà lạnh sống lưng. Hỏa Tiểu Tà bọn chúng biết rõ thân phận vai vế, đều vội cúi đầu, người hơi khom, hai bàn tay duỗi thẳng sát đường quần, chỉ dùng bắp chân cất những bước nhỏ. Tư thế này cũng là quy củ, bọn trộm trước khi xuống tay đều phải quan sát bốn phía, ưỡn người, ngẩng đầu tìm thời điểm, tay và ngón cũng phải nhấc lên, giữ thế, đặt vị trí, đợi thời cơ xuất hiện thì dùng đoạn ngắn nhất đưa tay ra, cầu nhanh – chuẩn – ổn. Cho nên tư thế này của bọn Hỏa Tiểu Tà chính là bày tỏ bản thân địa vị thấp, tuyệt không dám lỗ mãng.


Bà lão dẫn họ vào, đi trước dẫn đường, băng qua một tiền sảnh tối om, thẳng đến một phòng trong sân sau. Phòng không lớn, có đốt hương nến, cũng mang vẻ cổ kính. Bà lão nói: “Tề Nhị Cổn Tử, chờ ở đây!”


Tề Kiến Nhị liên tục vâng dạ, cũng không dám ngồi, kéo bọn Hỏa Tiểu Tà đứng sau lưng mình, bản thân thì đứng thẳng tắp giữa sảnh, đầu không dám quay loạn, chỉ có con mắt còn đảo quanh quan sát.


Chưa được bao lâu, từ trong phòng truyền ra tiếng ho khan, một ông già hơn năm mươi tuổi chống gậy gỗ đỏ chậm rãi bước ra, bàn tay cầm gậy chỉ có ba ngón, hình như cái dùi, nói là tay, chẳng bằng nói là một món khí cụ bằng thép đen đúc thành dạng vuốt. Người đến chính là Lưu Phùng Bảo!


Tề Kiến Nhị thấy vậy, vội đưa hai tay ra phía trước, để Tam Chỉ Lưu nhìn rõ lòng bàn tay, rồi hai ngón cái móc vào nhau, nắm nắm đấm, cả người cúi một cái thật sâu, nói: “Lưu đại gia gia.”


Tam Chỉ Lưu cũng không hề giống người âm trầm, nét mặt hòa hoãn nở nụ cười, khàn giọng nói: “Ồ! Là Tề Nhị Cổn Tử à! Ngồi đi! Ngồi đi!”


Tề Kiến Nhị nói: “Không dám không dám, con đứng nói là được.”


Tam Chỉ Lưu cũng không khách khí nữa, bước đến ngồi lên vị trí chủ tọa trong sảnh, ho một tiếng, nói: “Tề Nhị Cổn Tử, lâu rồi cậu không đến thăm ta, hôm nay mang tin vui gì đến thế?” Vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang bốn đứa nhỏ, rồi tiếp: “Hẳn là mấy thằng nhóc này biết được chuyện gì rồi nhỉ?”


Tề Kiến Nhị nói: “Lưu đại gia gia, chính mấy thằng nhỏ này biết được ít chuyện ngài bảo bọn tiểu bối nghe ngóng.”


Tam Chỉ Lưu nói: “Ồ? Tề Nhị Cổn Tử, cậu còn để bọn hạ ngũ linh đi nghe ngóng? Không ổn đâu!”


Tề Kiến Nhị vội đáp: “Lưu đại gia gia, con nào dám, là mấy thằng nhỏ này chẳng biết sao lại nhân duyên trùng hợp, chui vào được Phật đường nhà Trương Tứ Gia!”


Tam Chỉ Lưu siết chặt gậy, mắt lóe tinh quang, giọng nói cũng không còn khàn nữa, quát: “Tề Nhị Cổn Tử! Nói thật không đấy!”


Tề Kiến Nhị bị quát giật nảy người: “Thật! Thật! Bọn chúng tuyệt không dám lừa con, con mang cả tới đây rồi, để chúng tự nói cho ngài nghe!”


Tam Chỉ Lưu nện mạnh gậy, nền đất vang “đông” một tiếng, quát: “Nói!”


Tề Kiến Nhị túm Hỏa Tiểu Tà kéo đến bên mình, gấp giọng dặn: “Họa Hài! Chuyện mày chui lên nóc Phật đường nhà Trương Tứ Gia như thế nào, kể đầu đuôi ngọn nguồn cho Lưu đại gia gia!”


Hỏa Tiểu Tà vốn dọc đường căng thẳng, thấy hai người họ làm to chuyện như vậy, ngược lại chẳng để tâm, nghĩ: “Chẳng phải chỉ chuyện trộm điểm tâm thôi sao? Nói thì nói.”


Hỏa Tiểu Tà hiểu quy củ, cẩn thận hành lễ: “Lưu đại gia gia, con xin vấn an ngài, con tên Hỏa Tiểu Tà…”


Hỏa Tiểu Tà cúi đầu, gật gù đắc ý kể từng chút một chuyện làm sao chui lên được phía trên Phật đường nhà Trương Tứ Gia để trộm điểm tâm, nói ra y như khi nói với Tề Kiến Nhị.


Tam Chỉ Lưu nghe kỹ, hồi lâu không nói, khẽ gõ gậy, thở dài: “Không ngờ thằng nhãi con này còn có bản lĩnh như vậy!”


Hỏa Tiểu Tà nghe được lời khen, không biết phải làm sao, liếc sang Tề Kiến Nhị, Tề Kiến Nhị mặt đã nở sắc vui mừng, chỉ chăm chăm quan sát sắc mặt Tam Chỉ Lưu, lòng thầm nghĩ: “Đoán chừng phen này Tam Chỉ Lưu nhất định trọng thưởng! Bao ngày nay rồi, chẳng ai biết trong Phật đường nhà Trương Tứ Gia bày cái gì, vậy mà lại để đám nhỏ dưới tay mình nhìn thấy! Ha ha!”


Tam Chỉ Lưu nhắm mắt suy nghĩ, chợt nghe trong nội đường truyền ra tiếng cười “ha ha ha” liên tục, có người bước nhanh đi ra.


Tề Kiến Nhị ngẩng đầu nhìn, lập tức sợ đến đầu gối mềm nhũn, thiếu chút nữa quỳ rạp xuống đất.


Chỉ thấy người đến là một đại hán mặt đen, chiều cao bình thường, rất gầy gò, để râu dê, cắt đầu đinh ngắn, trên má trái từ ngang mày kéo thẳng xuống tới tận vành tai có một vết sẹo dao chém, trên người khoác chiếc áo khoác dài màu vàng nâu, không cài khuy, thắt lưng buộc một dây da bò màu đen to bản, trên dây lưng treo một vòng roi ngựa da rắn màu xanh sẫm.


Đại hán này vừa đi vừa cười, mắt nhìn chằm chằm vào bọn Hỏa Tiểu Tà.


Người này chính là một trong “Đông Bắc tứ đại đạo” nổi danh thời đó, giang hồ gọi là Hắc Tam Tiên, một gương mặt đen, một vết đao sẹo, một vòng roi rắn, là nhân vật trong giới Hạ Bát Hành ở Đông Bắc không ai là không biết! Hắc Tam Tiên vốn xuất thân học võ, chẳng rõ vì sao bước vào đường trộm đạo, từng trong một đêm liên tiếp khoắng sạch chín nhà giàu có ở Phụng Thiên, mỗi nhà đều bị để lại một tờ giấy vẽ con rắn đen, sau đó trốn khỏi Phụng Thiên. Từ ấy trên giang hồ chỉ truyền miệng đủ loại giai thoại về Hắc Tam Tiên.


Nghe nói Hắc Tam Tiên không chỉ trộm cắp, mà còn giết người như ngóe; hễ ai cản gã lấy đồ, gã nổi cơn lên là trong nhà bất kể già trẻ trai gái đều bị làm thịt sạch. Có người nói vụ án làm chấn động Đông Bắ, cả nhà Cung Tiểu Xuyên bị giết cả mười sáu mạng trong một đêm, chính là do Hắc Tam Tiên ra tay.


Bởi vậy, lúc Hắc Tam Tiên bất ngờ xuất hiện ở nhà Tam Chỉ Lưu, lại còn nhìn bọn họ mà cười hô hô, tự nhiên Lưu Kiến Nhị sợ đến chân tay bủn rủn.


Lưu Kiến Nhị nghĩ thầm: “Sao Hắc Tam Tiên lại quay về Phụng Thiên? Chẳng lẽ chuyện Tam Chỉ Lưu bảo chúng ta dò xét tình hình nhà Trương Tứ Gia có liên quan đến gã?”


Hỏa Tiểu Tà nhìn thấy Hắc Tam Tiên, nhớ đến câu chuyện giang hồ “mặt đen, sẹo đao, roi rắn”, lại thấy Lưu Kiến Nhị sợ đến lảo đảo, cũng đại khái đoán được người tới là ai.


Hỏa Tiểu Tà trong lòng bất an, nghĩ ngợi: “Chẳng lẽ Hắc Tam Tiên không tin ta nói? Nếu hắn hỏi đến chuyện trong Phật đường nhà Trương Tứ Gia, ta rốt cuộc nên nói hay không nói, nói rồi hắn liệu có tin không?” Vốn dĩ Hỏa Tiểu Tà ở trên xà nhà Phật đường quả thực nhìn thấy một việc kỳ quái xưa nay chưa từng nghe thấy, chỉ vì sự việc quá đỗi quái lạ, Hỏa Tiểu Tà nghĩ có nói ra cũng chẳng ai tin, nên mới cố ý bỏ qua đoạn ấy.


Hắc Tam Tiên bước đến trước mặt Tam Chỉ Lưu, thu tiếng cười, ôm quyền nói: “Lưu đại ca thứ lỗi, ta ở trong kia nghe họ nói chuyện thấy thú vị quá, nhịn không được nên ra xem.”


Tam Chỉ Lưu cũng rất khách khí, gật đầu: “Hắc huynh đệ khách sáo rồi, ta cũng đang định gọi ngươi ra.”


Hắc Tam Tiên nói: “Ta có thể hỏi đứa nhỏ này vài câu chứ?”


Tam Chỉ Lưu nói: “Cứ hỏi đi. Chỉ là mấy nhãi ranh hạ ngũ linh, không cần khách khí.”


Hắc Tam Tiên quay người lại, đôi mắt dài nhỏ nhìn chằm chằm Hỏa Tiểu Tà, hai tay chắp sau lưng bước lên hai bước, hỏi: “Thằng nhỏ, tao hỏi mày, trong Phật đường nhà Trương Tứ Gia thờ Phật gì, đốt hương gì?”


Hỏa Tiểu Tà nghĩ thầm: “Quả nhiên hỏi việc trong Phật đường.”


Hỏa Tiểu Tà cũng không dám chậm trễ, đáp: “Bẩm ông, thờ Địa Tạng Bồ Tát, đốt chín nén hương cao ba xích.”


(Bánh Tiêu: 1 xích bằng 1/3 mét)


Hắc Tam Tiên cười khẩy: “Trước Phật bày gì?”


Hỏa Tiểu Tà thầm mắng: “Độc thật! Làm sao hắn biết được!” Thực ra vật đặt trước Phật trong Phật đường chính là thứ khiến Hỏa Tiểu Tà cảm thấy quái lạ nhất.


Hỏa Tiểu Tà hơi do dự, ừm một tiếng, ngẩng lên nhìn Hắc Tam Tiên.


Hắc Tam Tiên hừ lạnh: “Mày đã vào rồi, mấy thứ đó còn có thể không nhìn thấy sao?”


Hỏa Tiểu Tà lập tức cúi đầu, nói: “Bẩm ông, con sợ con nói ra ông không tin.”


Hắc Tam Tiên nói: “Cứ nói! Ông mày đây đi nam về bắc, chuyện gì chưa từng thấy.”


Hỏa Tiểu Tà nói: “Dưới đất trước án Phật, đặt một thân thể phụ nữ nửa thân trần…”


Mọi người nghe xong, ngay cả Tam Chỉ Lưu đang ngồi cũng giật mình đến kinh ngạc, đôi mắt nhỏ trợn tròn xoe.


Lưu Kiến Nhị mắng: “Họa Tiểu Tà! Nói bậy gì đó! Câm miệng!”


Hắc Tam Tiên mặt đen ửng đỏ, trầm giọng quát: “Để nó nói!” Lưu Kiến Nhị sợ đến nín bặt, không dám ho he một tiếng.


Hỏa Tiểu Tà thì không hoảng hốt, trong mắt như lại hiện ra cảnh tượng trong Phật đường, cậu ta chỉnh lại mạch suy nghĩ, chậm rãi nói: “Ban đầu con cũng giật mình, tưởng người sống, nhưng nhìn kỹ thì không giống có hơi thở. Người nữ đó tuy mặc ít, nhưng nhìn đầu tóc trang sức thì biết không phải người triều Đại Thanh, hẳn là người thời trước.”


Hắc Tam Tiên hỏi: “Cô gái ấy nằm thế nào?”


Hỏa Tiểu Tà nói: “Nằm ngửa, mặt hướng lên trời, hai tay giao nhau đặt trên bụng dưới. À đúng rồi, trên trán còn vẽ một đạo phù màu đỏ son.”


Hắc Tam Tiên hừ một tiếng, “xoạt” một cái rút từ trong ngực ra một tờ giấy, bung ra trước mặt Hỏa Tiểu Tà: “Có phải phù này không!”


Hỏa Tiểu Tà nhìn kỹ, thấy trên giấy vẽ đúng hình ba vòng xoắn tròng vào nhau, y hệt phù trên trán thiếu nữ trong Phật đường.


Hỏa Tiểu Tà gật đầu lia lịa: “Đúng rồi, chính nó!”


Hắc Tam Tiên khẽ vung tay, lại cất giấy vào lòng, gương mặt đen đỏ rực lên, nói:“Thằng nhỏ, coi như mày có phúc, lại trông thấy bảo vật bậc này!”


Tam Chỉ Lưu đứng lên, bước đến trước mặt Hắc Tam Tiên, nói:“Hắc huynh đệ, lẽ nào thứ huynh nói là ngọc Nữ Thân?”


Hắc Tam Tiên cười:“Đúng vật ấy! Ta lần này đến Phụng Thiên, chính là để trộm ngọc Nữ Thân! Hê hê, hóa ra nó lại nằm trong nhà tên Trương Tứ Gia! Nào! Thằng nhỏ, lần này mày lập công lớn cho Hắc gia ta đây, đây là thưởng cho mày!” Nói rồi lôi ra mấy phiến lá vàng, “soạt” một cái ném xuống trước mặt Hỏa Tiểu Tà.


Hỏa Tiểu Tà cả đời chưa từng thấy nhiều tiền như thế ngay trước mắt, không nghĩ ngợi gì liền định ngồi xuống nhặt. Lưu Kiến Nhị vừa thấy lá vàng, nỗi sợ với Hắc Tam Tiên liền bị ném ra sau đầu, mắt sáng lập lòe, động tác lanh lẹ như chồn hoang chộp gà, lao tới húc Hỏa Tiểu Tà sang một bên, trong nháy mắt nhặt sạch lá vàng, liên tục nói: “Đa tạ Hắc gia! Đa tạ Hắc gia!” Nói xong còn không quên liếc xéo Hỏa Tiểu Tà, miệng lầm bầm: “Về sẽ tính sổ với mày!”


Tam Chỉ Lưu nói: “Mấy đứa chúng mày về đi! Giữ mồm giữ miệng! Nếu để lộ ra ngoài, tự biết kết cục!”


Lưu Kiến Nhị đáp liền mấy tiếng: “Dạ, dạ, Lưu đại gia yên tâm, yên tâm!”


Lưu Kiến Nhị kéo Hỏa Tiểu Tà và bọn nhỏ định đi, mới đi được vài bước, chợt nghe Hắc Tam Tiên gọi: “Chậm đã!”

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Vòng bảy người - Chương 1

Quyển sách thừa Khúc ngoặc đường Văn Tinh có một tòa kiến trúc cao tầng nhỏ thập niên 50, là thư viện lâu đời nhất trong thành phố này, kích thước không lớn. Kết cấu bên trong thư viện vẫn hoàn toàn mang phong cách của thập niên 50, mặt tường ngoài tòa nhà bò đầy dây thường xuân xanh biếc. Loài thực vật này có thể hấp thụ lượng lớn ánh nắng và nhiệt lượng, do đó đi trong hành lang của cao ốc không cảm thấy được một tia thiêu đốt của nắng hè, ngược lại bởi vì tầng tầng loang lổ này mà có vẻ có chút âm u kín đáo. Yên tĩnh là bầu không khí duy nhất của nơi này. Do đó lượng người dù cao tới đâu, một năm bốn mùa cũng đều im ắng như vậy, nguyên tắc cơ bản nhất của thư viện đó là chút yêu cầu ấy, nhưng không mảy may tiếng động nào lại có một tầng ý nghĩa khác, chính là sự cân bằng hết sức yếu ớt. Bởi vì bạn không cách nào biết được giây tiếp theo sẽ có cái gì phá tan sự cân bằng an tĩnh này, cho dù đó là một cây kim rơi xuống mặt đất, cũng sẽ khiến linh hồn bạn bị rung động. Chu Quyết thu dọn...

Tà Binh Phổ - Chương 48

Chương 48 - Hỗn chiến Đối mặt với Huyền Cương chạy trước tiên phong đâm đầu đánh tới, Bách Diệp cũng không dám xem thường, lập tức rũ mũi nhọn trường thương xuống, cổ tay rất nhanh run lên, thương kình bằng không vẽ ra nửa bước sóng song song với mặt đất đẩy dời đi. Mặc dù không nhìn thấy đạo thương kình phá kim đoạn ngọc kia, nhưng động tác rất nhỏ trên tay Bách Diệp lại không thể qua được đôi mắt của Huyền Cương, nó cực nhanh điều chỉnh tư thế chạy nhanh của mình, đem đường quỹ tích bước vọt tới trước kéo thành một hình cung, không cần chậm lại mà vẫn xảo diệu vòng qua thương kình vô hình của thập tự thương, tốc độ cực nhanh, khiến cho Bách Diệp không kịp phát ra đạo công kích viễn trình thứ hai. Bách Diệp thấy Huyền Cương trong nháy mắt đó đã đánh đến trước mặt mình, đáy lòng cũng âm thầm kêu một tiếng hay, thủ đoạn tránh né của nó nhìn như đơn giản, nhưng rất khó nắm chắc, bởi vì cần tỉ mỉ tính toán đo lường biên độ rung trái phải này của cổ tay Bách Diệp, tài năng ước đoán ra b...

Ánh Sáng Thành Phố - Vĩ Thanh

Vĩ Thanh - Em ngỡ anh đã đi rồi Một tuần sau, vụ án liên hoàn "Ánh sáng thành phố" tuyên bố kết thúc. Giang Á đối với những tội giết người liên tiếp của mình đã thú nhận không kiêng dè, cũng khai rõ toàn bộ chi tiết gây án. Dưới sự xác nhận của hắn, cảnh sát ở khu đất hoang phụ cận quán cafe "Lost in Paradise", cùng với nhiều địa điểm bên trong thành phố, lấy được lượng lớn vật chứng được chôn giấu, vứt bỏ. Qua xét nghiệm, vật chứng này cùng khẩu cung của Giang Á và kết luận khám nghiệm đồng nhất với nhau. Sau khi toàn lực lùng vớt, ở giữa sông Ly Thông phát hiện phần tàn tích của đầu lâu và mô cơ, cùng nhận định với án nam thi không đầu. Án mạng thôn La Dương 21 năm trước, do niên đại đã rất lâu, trừ khẩu cung của Giang Á ra, không còn chứng cứ nào, viện kiểm sát đưa ra quyết định không cho khởi tố nữa. Thông qua tiến hành kiểm tra toàn diện xe Jetta trắng của Giang Á, cảnh sát ở miệng khóa cốp và đầu đỉnh của cốp xe phía sau phát hiện lượng vết máu nhỏ,...