Chuyển đến nội dung chính

Miêu Cương Cổ Sự Quyển 14 - Chương 20

 Chương 20 - Tộc Khơ Dương, nhảy tường rơi hố


Chúng tôi dò hỏi một hồi, biết được Diêu Viễn vẫn chưa rời đi. Trời đã tối, cũng không cần vội vàng đi tìm ngay, mà ở lại để nghe ngóng thêm tình hình.


Người phụ nữ Khơ Dương này có tên khá phức tạp, Ngô Cương dịch sang gọi là Đỗ Nhược Cát. Trong túp lều ngoài cô ấy còn có chồng và ba đứa con (hai trai, một gái). Như đã nói, tộc Khơ Dương theo chế độ mẫu hệ, người quyết định mọi việc trong nhà là phụ nữ, còn người đàn ông thì lại chẳng mấy tồn tại về mặt “quyền lực”.


Khơ Dương là một dân tộc nhiều bất hạnh. Những đồng tộc ở ngoài núi phần lớn sống trong trại tị nạn hoặc ở các điểm du lịch, giống như những “mẫu vật sống” để khách tham quan ngắm ngía. Còn những người Khơ Dương sống sâu trong núi thì khá hơn đôi chút, có thể theo ý mình mà duy trì giống nòi.


Sinh tồn nơi núi rừng hẻo lánh, họ không chỉ đối mặt với sự khan hiếm vật tư, mà còn thường xuyên bị dã thú, rắn độc, thời tiết khắc nghiệt, thậm chí là các nhóm dân tộc miền núi lân cận tấn công.


Nhưng “Đạo có năm mươi, trời lấy bốn mươi chín, người giữ lại một”, tồn tại chính là minh chứng của chân lý, người Khơ Dương nơi đây đương nhiên có sức sống bền bỉ. Nhờ ống nhòm nhìn đêm của Đoá Đoá, tôi thấy ở góc lều còn có bóng dáng của vài khẩu súng trường cũ. Ngô Cương kể rằng các bậc trưởng lão Khơ Dương có thể thuần rắn, dùng cả đàn rắn để bảo vệ an toàn cho làng. Nói rồi, Đỗ Nhược Cát lấy một loại nhựa thực vật màu đen tím bôi lên người chúng tôi, bảo rằng có thứ này, rắn sẽ coi chúng tôi như “người nhà”, nếu không có lệnh sẽ không tùy tiện tấn công.


Hai người phụ nữ kia mang đồ rời đi, còn Đỗ Nhược Cát thì bận rộn chuẩn bị bữa tối cho chúng tôi và gia đình.


Cô ấy có một cô con gái tên Mạt Đan, mới sáu tuổi, bằng tuổi Đoá Đoá. Dù lớn lên trong túp lều nghèo nàn, bé vẫn xinh đẹp như một nàng công chúa nhỏ, luôn tươi cười; tiếng cười trong trẻo như dòng suối mát rửa sạch mệt mỏi trong lòng chúng tôi. Tiếc là trên cổ bé cũng đã đeo vòng đồng, tuy chưa khoa trương như mẹ, nhưng nhìn vào vẫn khiến chúng tôi thấy nhói lòng.


Có người nói rằng tộc Khơ Dương thờ phụng loài sinh vật cổ xưa khủng long cổ dài, đeo vòng cổ để bắt chước hình dáng ấy, nhằm dọa hổ trong rừng. Nhưng truyền thuyết đã quá xa xưa, nay chỉ còn là một thói quen của dân tộc.


Với những người được giáo dục hiện đại như chúng tôi, thật khó mà chấp nhận một hủ tục biến dạng thân thể giống như tục bó chân xưa kia.


Bữa tối thì chẳng ngon chút nào. Thứ cơm đen sì, kỳ quái này là loại gạo tệ nhất tôi từng ăn. Thế mà chủ nhà lại nhai chậm rãi, vẻ mặt rất thích thú. Ngoài cơm, còn có một loại tương màu vàng đen; họ chấm cơm ăn, trông rất ngon miệng, nhưng tôi vừa nếm thử đã cảm thấy như được làm từ loài côn trùng nào đó, vị tanh hôi kỳ lạ. Khi nhai, tôi còn cắn trúng một chiếc chân côn trùng. Kể cả Ngô Cương, chúng tôi ai cũng ăn không nhiều. Sau bữa, tôi lục trong balô lấy ra sô-cô-la, thanh năng lượng 99, bánh quy nén, thêm xúc xích, mì gói và bánh mì nhỏ chia cho ba đứa trẻ.


Tôi đến giờ vẫn còn nhớ rõ ba đứa trẻ ấy khi cẩn thận ăn từng miếng sô-cô-la đen, nụ cười hân hoan nở trên khuôn mặt.


Đôi mắt của chúng, vào khoảnh khắc ấy, sáng lấp lánh như bầu trời đầy sao.


Nhưng mấy thứ đó rất nhanh đã bị Đỗ Nhược Cát thu lại. Ngô Cương giải thích với tôi rằng cô ấy không muốn lũ trẻ ăn quá nhiều, phải để dành làm phần thưởng.


Là con gái duy nhất, Mạt Đan được thưởng hẳn một viên kẹo sô-cô-la tròn, ngậm vào miệng một cách hạnh phúc, bên cạnh là hai cậu anh trai tội nghiệp, thèm thuồng chảy nước miếng.


Nửa tiếng sau bữa ăn, một trong hai người phụ nữ rời đi lúc trước quay lại, dẫn theo hai bà lão mặc đồ trắng, giới thiệu rằng đây là trưởng lão của bản. Chúng tôi lập tức đứng lên chào. Vì quà đã tặng hết nên chỉ còn có thể dâng tiền kyat. Các bà nhận lấy, mỉm cười hỏi han đôi câu. Ngô Cương làm thông dịch cũng khá ổn. Chúng tôi chuyện trò một lát, rồi các bà rời đi, trước khi đi còn căn dặn đừng tới gần Cách Lãng phật miếu, vì các pháp sư ở đó không phải người trong tộc, tính tình rất nóng nảy.


Chúng tôi tuy lấy làm lạ, nhưng vẫn gật đầu đồng ý.


Trong bản không có điện, đến tám giờ tối, trừ bếp lửa chưa tắt, khắp nơi đều tối đen. Cô bé Mạt Đan vô cùng đáng yêu, đầu cài hoa, mặc bộ lễ phục ngày hội, không ngừng khe khẽ hát và múa những điệu dân tộc, giống như một chú nai nhỏ vui tươi. Tôi và Tiểu Đạo Lưu Manh cứ chọc đùa, khiến bé càng vui, vụng về đem hết những gì học được ra biểu diễn. Tiểu Đạo Lưu Manh còn thì thầm với tôi rằng, nếu mình cũng có một cô con gái đáng yêu thế này thì tốt biết bao.


Khi trời tối hẳn, Đỗ Nhược Cát và chồng mang đến một bó rơm khô thơm mùi nắng, trải đều trên nền nhà cho chúng tôi nằm nghỉ.


Đêm xuống, rừng mưa ẩm ướt và oi bức, nhưng bản nằm ở khe gió giữa hai ngọn núi, lại sát bên suối, làn gió mát len qua những khe hở của ván gỗ, nên cũng không đến nỗi khó chịu.


Sâu béo sau một ngày rong chơi, cuối cùng cũng nhớ đường về, luồn qua khe hở chui vào, rồi theo ý tôi, làm cho chủ nhân túp lều này và cả Ngô Cương mê man.


Chiêu này, sâu béo từng dùng trên A Căn bị mất hồn.


Chúng tôi rời khỏi túp lều. Cả bản chìm trong tĩnh mịch và bóng tối, chỉ ở cuối bản, lưng chừng núi có một ánh sáng mờ ảo. Đó chính là Cách Lãng phật miếu, nơi duy nhất trong bản đủ khả năng dùng đèn dầu. Mèo Da Hổ đại nhân ngồi nghỉ trên một khúc gỗ nhô ra, giống hệt cú mèo, mắt sáng quắc.


Chúng tôi lấy làm lạ: đã là chùa, cớ sao vị hòa thượng gặp ở cổng bản lại không nghỉ lại đó, mà lại vội vàng rời đi? Nhưng trong đó có Diêu Viễn và hòn đá số 105 mà chúng tôi đang tìm kiếm, nên chẳng thể bận tâm nhiều, nhất định phải tới xem.


Ở một nơi xa lạ thế này, chúng tôi đương nhiên hết sức cẩn trọng. Tiểu yêu Đoá Đoá cũng từ thẻ gỗ hoè trước ngực tôi hiện ra, hít một hơi thật sâu, rồi nói nơi này, cô bé rất thích.


Thực tế, ngoài tôi và Tiểu Đạo Lưu Manh, thì cả đám vật nhỏ đều thích nơi này.


Ra khỏi túp lều, chúng tôi men theo con đường trong bản mà đi. Trên đường là thảm cỏ, bên cạnh có bụi gai, hai bên là những túp nhà tranh lờ mờ dưới ánh trăng. Từ khắp bốn phía vang lên tiếng côn trùng kêu rỉ rả, chíp chíp...Từ trong túp lều còn vọng ra những tiếng rên rỉ trầm đục của đàn ông và đàn bà. Tiểu Đạo Lưu Manh khẽ cười, nói rằng ở những thôn bản miền núi không có “đời sống về đêm”, dường như chỉ còn mỗi loại hình giải trí này thôi, chẳng biết mấy chàng trai độc thân thì biết làm sao mà chịu cho nổi?


Chúng tôi vốn nghĩ sẽ ung dung đi thẳng đến Cách Lãng phật miếu, nhưng chưa đi quá năm mươi mét thì đã bị ba người chĩa súng vào đầu.


Mèo Da Hổ đại nhân hả hê làm phiên dịch cho chúng tôi, bảo rằng đó là lính gác phục kích trong bản — ở vùng rừng sâu thuộc “Tam giác vàng” này, người dân núi cảnh giác chẳng thể giống những thôn làng hiền hòa ở quê nhà. Mấy người đó quát: “Ôm đầu ngồi xuống, không thì bắn!” Chúng tôi đành bất lực, ôm đầu, ngồi xổm tại chỗ. Ba kẻ cầm súng tiến lại định khám xét, còn lẩm bẩm gì đó, nhưng chưa kịp đến gần ba mét thì hai tên đã ngã vật xuống đất, tên còn lại đứng sững như tượng, sau lưng hắn là Tiểu yêu Đoá Đoá đang lơ lửng, đưa ngón tay trắng nõn chạm nhẹ vào.


Kim Tằm Cổ và Tiểu yêu Đoá Đoá, hai đứa nhóc này vốn chẳng dễ đối phó chút nào.


Tuy nhiên, vì không được Mèo Da Hổ đại nhân cảnh báo trước nên mới xảy ra xung đột với toán tuần tra trong bản, e rằng sáng mai chúng tôi sẽ không thể ở lại đây nữa. Nhưng cũng chẳng sao, chúng tôi lập tức tăng tốc tiến về Cách Lãng phật miếu ở lưng chừng núi, tìm thẳng đến Diêu Viễn; cùng lắm thì chạy vào rừng nguyên sinh ẩn náu nửa đêm cũng được. Rút kinh nghiệm vừa rồi, chúng tôi để sâu béo và Tiểu yêu Đoá Đoá đi dò đường phía trước, ngay cả Mèo Da Hổ đại nhân vốn uể oải cũng bị gọi bay lên không theo.


Có những vệ binh kỳ diệu này dẫn lối, chúng tôi cứ thế tiến bước, đi qua vô số túp lều thấp và lùm cây rậm rạp, cho đến khi tới trước một ngôi miếu nhỏ mang phong cách Miến Điện.


Đây là công trình bằng đá duy nhất trong cả bản, có một ngọn tháp Phật không cao. Xét về giá trị nghệ thuật và kiến trúc thì so với những gì chúng tôi từng thấy ở Yangon hay Tachileik, nó chỉ như tác phẩm vụng về của một thợ đá quê mùa. Thế nhưng, khi chúng tôi đứng dưới con đường dẫn lên Cách Lãng miếu, ngẩng đầu nhìn khối bóng đen đó, trong lòng lại dâng lên một áp lực khó tả.


Cảm giác ấy không phải do bản thân tòa kiến trúc mang lại, mà là do những con người bên trong.


Sâu béo và Tiểu yêu Đoá Đoá đều dừng lại dưới bờ dốc núi, không chịu tiến thêm bước nào. Mèo Da Hổ đại nhân nghiêm mặt, vỗ cánh bay vòng vòng quanh khu vực. Tôi và Tiểu Đạo Lưu Manh liếc nhìn nhau, rồi kiên quyết bước lên một bước, chậm rãi tiến về phía ngôi miếu thờ. Chưa vào tới nơi đã ngửi thấy một mùi hương thanh mát phả đến, là mùi hoa hòa lẫn với mùi hương trầm và nến, tạo thành một thứ hương vị kỳ dị. Sâu béo và Tiểu yêu Đoá Đoá lần lượt quay trở lại, không còn lơ lửng bên ngoài nữa. Tôi theo sát bước chân Tiểu Đạo Lưu Manh, chậm rãi tiến tới gần, nhưng không vào cửa chùa mà ở bên ngoài nghiêng tai lắng nghe.


Từ bên trong vọng ra tiếng tụng kinh Phạn ngữ mơ hồ.


Trong tầm mắt chúng tôi, ánh nến bên trong cứ chập chờn, nhảy múa như có làn gió nhẹ khẽ lay. Tiếng niệm Phật như khói sương, nhạt nhòa trôi vào tâm trí. Nếu không phải đang ở trong đêm tĩnh lặng này, hẳn tôi đã cảm thấy lòng mình khoan khoái. Thế nhưng, nghe được một lúc, chúng tôi lại thấy cả thế giới như chao đảo, giống như bị thôi miên. Tiểu Đạo Lưu Manh không nhịn nổi nữa, bức tường đất cao hai mét, anh ta bám vào bùn rồi nhảy vọt lên đỉnh tường, lộn người xuống bên trong. Ngay sau đó là một tiếng hự nặng nề vang lên.


Tim tôi lập tức căng thẳng, lùi lại mấy mét, lấy đà lao lên, cũng nhảy được lên tường. Chỉ thấy Tiểu Đạo Lưu Manh đã rơi xuống một cái hố đen nhỏ.


Sao cái anh chàng này lại xui tận mạng thế chứ?


Tôi chẳng kịp nghĩ thêm, lộn mình xuống cạnh hố đen. Nhưng vừa đặt chân xuống, tôi đã cảm thấy mặt đất dưới chân chuyển động. Định rút lại, thì trời đất bỗng xoay cuồng, chân hụt hẫng, cả người rơi thẳng xuống, đập mạnh lên lớp đất ẩm trong hố.


Tôi chống tay xuống thì một luồng gió tanh nồng lẫn mùi ngọt hắc phả thẳng vào mặt. Thanh kiếm gỗ đào của Tiểu Đạo Lưu Manh vụt qua bên cạnh tôi, đâm mạnh về phía trước, khiến một vật gì đó giật mình lùi lại.


Tôi mở to mắt nhìn, cách chừng năm mét, một đôi mắt sáng rực như bóng đèn tròn đang trừng trừng nhìn thẳng vào chúng tôi.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Vòng bảy người - Chương 1

Quyển sách thừa Khúc ngoặc đường Văn Tinh có một tòa kiến trúc cao tầng nhỏ thập niên 50, là thư viện lâu đời nhất trong thành phố này, kích thước không lớn. Kết cấu bên trong thư viện vẫn hoàn toàn mang phong cách của thập niên 50, mặt tường ngoài tòa nhà bò đầy dây thường xuân xanh biếc. Loài thực vật này có thể hấp thụ lượng lớn ánh nắng và nhiệt lượng, do đó đi trong hành lang của cao ốc không cảm thấy được một tia thiêu đốt của nắng hè, ngược lại bởi vì tầng tầng loang lổ này mà có vẻ có chút âm u kín đáo. Yên tĩnh là bầu không khí duy nhất của nơi này. Do đó lượng người dù cao tới đâu, một năm bốn mùa cũng đều im ắng như vậy, nguyên tắc cơ bản nhất của thư viện đó là chút yêu cầu ấy, nhưng không mảy may tiếng động nào lại có một tầng ý nghĩa khác, chính là sự cân bằng hết sức yếu ớt. Bởi vì bạn không cách nào biết được giây tiếp theo sẽ có cái gì phá tan sự cân bằng an tĩnh này, cho dù đó là một cây kim rơi xuống mặt đất, cũng sẽ khiến linh hồn bạn bị rung động. Chu Quyết thu dọn...

Tà Binh Phổ - Chương 48

Chương 48 - Hỗn chiến Đối mặt với Huyền Cương chạy trước tiên phong đâm đầu đánh tới, Bách Diệp cũng không dám xem thường, lập tức rũ mũi nhọn trường thương xuống, cổ tay rất nhanh run lên, thương kình bằng không vẽ ra nửa bước sóng song song với mặt đất đẩy dời đi. Mặc dù không nhìn thấy đạo thương kình phá kim đoạn ngọc kia, nhưng động tác rất nhỏ trên tay Bách Diệp lại không thể qua được đôi mắt của Huyền Cương, nó cực nhanh điều chỉnh tư thế chạy nhanh của mình, đem đường quỹ tích bước vọt tới trước kéo thành một hình cung, không cần chậm lại mà vẫn xảo diệu vòng qua thương kình vô hình của thập tự thương, tốc độ cực nhanh, khiến cho Bách Diệp không kịp phát ra đạo công kích viễn trình thứ hai. Bách Diệp thấy Huyền Cương trong nháy mắt đó đã đánh đến trước mặt mình, đáy lòng cũng âm thầm kêu một tiếng hay, thủ đoạn tránh né của nó nhìn như đơn giản, nhưng rất khó nắm chắc, bởi vì cần tỉ mỉ tính toán đo lường biên độ rung trái phải này của cổ tay Bách Diệp, tài năng ước đoán ra b...

Ánh Sáng Thành Phố - Vĩ Thanh

Vĩ Thanh - Em ngỡ anh đã đi rồi Một tuần sau, vụ án liên hoàn "Ánh sáng thành phố" tuyên bố kết thúc. Giang Á đối với những tội giết người liên tiếp của mình đã thú nhận không kiêng dè, cũng khai rõ toàn bộ chi tiết gây án. Dưới sự xác nhận của hắn, cảnh sát ở khu đất hoang phụ cận quán cafe "Lost in Paradise", cùng với nhiều địa điểm bên trong thành phố, lấy được lượng lớn vật chứng được chôn giấu, vứt bỏ. Qua xét nghiệm, vật chứng này cùng khẩu cung của Giang Á và kết luận khám nghiệm đồng nhất với nhau. Sau khi toàn lực lùng vớt, ở giữa sông Ly Thông phát hiện phần tàn tích của đầu lâu và mô cơ, cùng nhận định với án nam thi không đầu. Án mạng thôn La Dương 21 năm trước, do niên đại đã rất lâu, trừ khẩu cung của Giang Á ra, không còn chứng cứ nào, viện kiểm sát đưa ra quyết định không cho khởi tố nữa. Thông qua tiến hành kiểm tra toàn diện xe Jetta trắng của Giang Á, cảnh sát ở miệng khóa cốp và đầu đỉnh của cốp xe phía sau phát hiện lượng vết máu nhỏ,...