Chương 5 - Gặp Người Cũ Trên Phố Yangon
Yangon là thủ đô cũ và cũng là thành phố lớn nhất của Liên bang Myanmar, tọa lạc tại vùng châu thổ phì nhiêu nhất nước, đồng bằng sông Ayeyarwady. Đây là một thành phố ven biển xinh đẹp mang đậm phong vị nhiệt đới, ba mặt được nước bao quanh, vị trí địa lý hết sức ưu việt, từ lâu đã được mệnh danh là “Thành phố Hòa bình”.
Máy bay hạ cánh tại sân bay Mingaladon, khi đó đã là bốn giờ chiều. Chi nhánh công ty của Lý Gia Hồ tại Myanmar đã thuê sẵn một chiếc xe buýt lớn để đón chúng tôi vào trung tâm thành phố, đến khách sạn.
Sân bay cách trung tâm thành phố tới hai mươi cây số. Lên xe rồi, tôi mới phát hiện thủ đô Myanmar này chẳng khác gì một thành phố hạng hai ở Trung Quốc. Trên đường có rất nhiều chiếc xe cũ kỹ đang lăn bánh, nhìn như thể vừa được kéo từ bãi phế liệu ra, khiến người ta có cảm giác như xuyên không, quay về mấy chục năm trước.
Nghe người ta kể, những chiếc xe này phần lớn là “cổ vật” từ Nhật Bản, Hàn Quốc sản xuất từ thập niên 70–80 của thế kỷ trước, thậm chí có chiếc còn cũ hơn, ngược dòng thời gian về tận thời Thế chiến II. Tôi nghe mà toát mồ hôi, thật phục bọn chúng vẫn còn có thể chạy được trên đường.
So với các thành phố hạng hai trong nước, Yangon dù là thành phố lớn nhất Myanmar lại chẳng có vẻ gì là phồn hoa. Nhà cửa cũ kỹ, thấp bé, suốt dọc đường đi trông giống như đang băng qua một công viên lớn, khắp nơi là cây cối, hoa lá và tháp Phật.
Đây là một thành phố nơi văn minh hiện đại giao hòa với văn hóa lịch sử, cũng là một thành phố nhàn nhã và tươi đẹp. Trên đường, thường thấy các nhà sư khoác cà sa đỏ, để trần vai trái, chân trần bước đi. Các cô gái trẻ bôi thanaka lên mặt, mặc longyi (váy ống), chạy theo con nhỏ. Những người đàn ông trần trụi nửa thân trên, lộ rõ thân hình gầy guộc, cười nói rôm rả.
Trên trời vọng xuống tiếng "gù gù" của đàn bồ câu bay lượn.
Từ cửa sổ xe nhìn ra ngoài, thứ đập vào mắt nhiều nhất chính là những ngọn tháp Phật, cái thì dát vàng, cái thì bằng đá trắng, rải rác giữa các tòa nhà hoặc ẩn mình giữa rừng cây.
Ông chủ Cố nói với chúng tôi rằng, người Myanmar rất mộ đạo, sùng tín Tiểu thừa Phật giáo. Dù là ai, nếu xây được một ngôi tháp cúng Phật, thì đó chính là việc thiện lớn nhất đời người. Ước nguyện cả đời của họ, cũng chính là được dựng một ngôi tháp dâng lên Đức Phật.
Bởi vậy, thời thịnh vượng nhất, trên khắp vùng đồng bằng Bagan này từng có tới mười ba nghìn ngôi tháp Phật. Dòng chảy thời gian cuốn trôi bao điều, cho đến hôm nay, các cổ tháp, chùa chiền và di tích còn sót lại cũng vẫn hơn năm nghìn ngôi.
Myanmar tuy bị xếp vào nhóm các quốc gia kém phát triển nhất thế giới, nhưng người dân nơi đây có tín ngưỡng, nên họ không cảm thấy nghèo khổ là điều gì quá đáng sợ.
Tuy nhiên, đứng từ góc độ người ngoài nhìn vào, chúng tôi không khỏi dâng lên một cảm giác tự hào mãnh liệt về quê hương mình. Và loại tự hào này, là thứ cảm xúc mà khi ở trong nước, bạn khó mà cảm nhận được.
Chúng tôi có hơn hai mươi người tất cả, ngoài tôi, Tiểu Đạo Lưu Manh, chú út, ông chủ Cố, Tần Lập, Lý Gia Hồ, Tuyết Thụy, Hứa Minh, còn có vài thương nhân buôn ngọc đến từ Hồng Kông, cùng với vệ sĩ và trợ lý riêng đi theo.
Khi đến khách sạn trong trung tâm thành phố, cảm giác cũng không khác biệt lắm, chỉ là có thể cảm nhận rõ nét phong cách dân tộc đặc trưng. Cái xe buýt đưa từ sân bay về thì mùi không dễ chịu gì, tôi đã thấy choáng váng, huống chi là mấy ông thương gia quen sống sung sướng kia. Nhưng vì bị phương Tây cấm vận, Myanmar rất khó nhập xe hơi mới, nên ở đây có tiền cũng chưa chắc tiêu được.Tới khách sạn, tôi và Tiểu Đạo Lưu Manh ở cùng phòng, còn chú út thì ở phòng riêng.
Chúng tôi tắm rửa nghỉ ngơi một chút thì Tần Lập đến gõ cửa gọi xuống ăn tối. Bữa tối ăn ở một nhà hàng cao cấp gần khách sạn, tham gia đều là nhóm người chúng tôi quen biết với nhau, còn các thương nhân khác thì có kế hoạch riêng. Công ty nhà Lý Gia Hồ ở Yangon có một văn phòng nhỏ, gọi là công ty thương mại nhưng thật ra chỉ là chỗ thu thập thông tin thị trường ngọc và giao dịch, do đó ở bên cạnh đều có một giám đốc tên Quách Giai Tân xử lý tiến trình.
Nói là nhà hàng cao cấp, nhưng nội thất còn không bằng cái nhà hàng tôi từng mở. Ở đây chủ yếu phục vụ món Myanmar, nhưng ăn vào thì thấy khá nhiều dầu mỡ, vị mặn và cay. Cơm thì lại rất thơm, cá nấu cà ri thì ngon, mấy món gỏi lại mát và dễ ăn. Dân Myanmar hình như rất khoái đồ chiên, cả bàn toàn là: bắp chiên, hành tây chiên, chuối chiên, bí chiên, tôm chiên... Mấy món này đều được tẩm bột và gia vị, chiên lên thơm lừng.
Ông chủ Cố chỉ vào dĩa cơm trước mặt cười nói: “Dân Myanmar mê cơm lắm, nên nấu đồ ăn toàn mặn, chua với cay cho đậm đà. Cũng giống như mình ăn dưa muối ấy mà, để ăn với cơm ngon hơn. Mọi người cố gắng ăn thêm nhiều cơm, coi như nhập gia tùy tục.”
Tụi tôi gật gù, rồi đùa rằng: “Cuộc sống người dân Myanmar chắc cũng cực thật, ngày nào cũng như ăn dưa mặn sống qua ngày.”
Ấy vậy mà tối hôm đó tôi ăn liền bốn bát cơm, thật là thơm.
Một nhóm người quây quần bên bàn ăn, trò chuyện về hội chợ giao dịch sẽ được tổ chức vào ngày mai. Từ Gia Vân giải thích với chúng tôi rằng kỳ công bàn năm 2008 đã tổ chức xong rồi, nhưng dựa theo số liệu công bố hiện tại thì tình hình không mấy khả quan. Bởi vì sau hội chợ, chính sách của chính phủ quân sự thường xuyên thay đổi, hơn nữa lại ngày càng siết chặt việc xuất khẩu ngọc thạch thượng hạng, điều này khiến đông đảo thương nhân từ nội địa và Hồng Kông vô cùng bất mãn. Mặc dù ngọc Myanmar ngày càng được ưa chuộng trên thị trường, nhưng kể từ năm 2006, số lượng thương nhân và vốn tham gia hội chợ đều có xu hướng giảm dần.
Thật ra mà nói, hội chợ hiện nay, ở một mức độ nào đó, đã trở thành công cụ rửa tiền của một số thế lực.
Hội chợ lần này quy mô tổ chức không lớn, số thương nhân nhận được tin tức và lời mời cũng không nhiều, nhưng đều là những người có thực lực. Phía Sán Đầu và Phúc Kiến cũng sẽ có một nhóm người đến, ngoài ra còn có người từ Nhật Bản và châu Âu, tuy nhiên tổng cộng cũng chỉ khoảng một hai trăm người. Bên tổ chức lần này hẳn sẽ tung ra một số món hàng cao cấp, nhằm cứu vãn lượng giao dịch sụt giảm qua từng năm. Phải biết rằng, ngành ngọc thạch hiện giờ gần như đã trở thành ngành trụ cột quốc dân của Myanmar.
Sau bữa tối, ông chủ Cố và Lý Gia Hồ cùng những người khác phải quay về để bàn bạc chuyện hội chợ ngày mai, họ hỏi chúng tôi có muốn đi dạo một vòng quanh Yangon không. Nếu muốn, có thể nhờ chi nhánh phái một chiếc xe cùng tài xế và phiên dịch cho chúng tôi dùng. Chúng tôi từ chối, nói là muốn tự mình đi dạo loanh quanh một chút để trải nghiệm phong tục tập quán của Yangon. Sau khi ăn xong, chúng tôi chia tay nhau, rồi đi dạo dọc theo phố thương mại, đi cùng còn có Hứa Minh, Tuyết Thụy và một phiên dịch do Lý Gia Hồ cử đi cùng.
Tuyết Thụy từng theo cha cô là Lý Gia Hồ đến Myanmar, và lần đó đã bị trúng Thủy Tinh Hàng.
Nhưng cũng chính vì có trải nghiệm ấy mà Tuyết Thụy giờ đây lại khá ra dáng một hướng dẫn viên có năng lực khi ở Myanmar. Thực ra, với sự tinh ranh cáo già của Lý Gia Hồ, ông ta tất nhiên biết rõ sự thay đổi của con gái mình, cho nên nhiều lúc, ông lại không còn quản lý con gái nghiêm khắc như trước nữa. Ngay cả khi trở lại mảnh đất nguy hiểm như Myanmar, ông cũng vẫn đồng ý với yêu cầu của con gái.
Bởi vì ông ta hiểu rõ, con gái mình cuối cùng cũng đã trưởng thành, đã có suy nghĩ và quyết định riêng, nên đành để nó tự do lựa chọn con đường của mình.
Lý Gia Hồ là một người cha thông minh.
Cây xanh rợp bóng, khắp nơi đều là những tán cây cao lớn cùng những đóa hoa rực rỡ đủ màu sắc. Giữa con phố nơi đất khách quê người, làn gió mùa hạ lướt qua bên cạnh chúng tôi, mang theo cảm giác dính dấp khó chịu. Tuyết Thụy đi bên cạnh tôi, giới thiệu cho chúng tôi về phong tục tập quán, tình hình kinh tế và chính trị của Myanmar, thỉnh thoảng còn chỉ vào vài thứ lạ mắt bên đường để chúng tôi chú ý, hoàn toàn không giống một cô gái gần như đã mù hai mắt.
Nhìn những người bản địa xung quanh, ăn mặc trong những bộ đồ dân tộc đủ màu sắc rực rỡ hay trầm tối, trong lòng tôi luôn có cảm giác như không thật — đây là nước ngoài ư? Đây là Myanmar? Đây là Yangon, thành phố lớn nhất Myanmar sao? Thật lòng mà nói, tôi thấy nó còn chẳng bằng một thành phố hạng hai ở nội địa Trung Quốc.
Hứa Minh đi cùng chúng tôi, thỉnh thoảng chêm vài câu, nhưng Tuyết Thụy lại chẳng mấy khi để tâm đến người chú họ này.
Một lát sau, Hứa Minh và Tiểu Đạo Lưu Manh tụt lại phía sau, vừa đi vừa thì thầm gì đó. Tuyết Thụy thì lại mua không ít đồ thủ công, quần áo dân tộc, nón cỏ và đồ trang sức đặc trưng địa phương, tôi bèn giúp cô ấy xách theo. Năm người đàn ông chúng tôi (người phiên dịch cũng là nam) đi dạo phố cùng một cô bé, thật ra chẳng phải chuyện gì dễ chịu, nhất là khi chúng tôi còn đang tính đến hội chợ để quan sát địa hình, thì lại càng không có tâm trạng để tiếp tục lang thang như vậy.
Dù sao thì chúng tôi cũng không phải đến đây để du lịch, mà du lịch dưới chế độ chính quyền quân sự của Myanmar thì cũng chẳng thể nào phát triển bằng nước láng giềng Thái Lan.
Mục đích của chúng tôi chỉ có một, chính là nguyên thạch được cho là có chứa Kỳ Lân Thai.
Thấy bọn tôi có vẻ không mấy hứng thú, Tuyết Thụy liền hỏi: “Các anh không thích chỗ này à? Hay là ngày mai mình đi xem chùa Shwedagon nhé? Nghe nói ngôi tháp đó cao hơn 110 mét, bên ngoài dát hơn bảy mươi tấn vàng, bên trong còn thờ tám sợi tóc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nữa đấy. Thế nào, có muốn đi xem không?”
“Ơ, anh Lục Tả, sao anh dừng lại rồi?” Tuyết Thụy vỗ nhẹ vào tay tôi, ngạc nhiên hỏi.
Ánh mắt tôi lúc ấy đã bị dính chặt vào một người đàn ông đang nghiêng người giữa đám đông phía trước. Đó là một thiếu niên có khuôn mặt rất tuấn tú, tóc hơi xoăn, góc nghiêng rõ nét như một bức tượng thời kỳ Phục Hưng.
Cậu ta mặc vest hè, toàn thân đen tuyền, có khí chất u sầu đặc trưng kiểu nam chính trong truyện tranh thiếu nữ, nổi bật giữa con phố sầm uất, nhưng lại mang vẻ cô độc, lạc lõng.
Sau đó, cậu ta quay đầu lại, lặng lẽ nhìn chằm chằm tôi, rồi mỉm cười. Nụ cười ấy không phải là kiểu gặp lại bạn cũ lâu ngày, mà mang một sự kiêu ngạo, nhìn xuống từ trên cao.
Ánh mắt cậu ta như nước khoáng ướp lạnh, lạnh buốt, xuyên thấu.
Lúc này, Tiểu Đạo Lưu Manh từ phía sau đi lên, vừa thấy gã đáng ghét kia liền siết chặt nắm đấm, kêu lên: “Mẹ nó, sao lại là thằng đó?”
Đúng vậy, anh chàng này chính là người quen cũ của chúng tôi, thằng nhóc người Nhật tên Kato Harasan, từng trộm cây ở vườn thực vật Giang Thành. Thằng nhóc mang vẻ ngoài “u sầu rạng rỡ”, trông có vẻ chỉ hơi làm màu, không hại ai, nhưng tôi từng chứng kiến nó ra tay ở vườn thực vật, độc ác, giết người không chớp mắt. Sau đó lại còn ngạo mạn, làm như mình là công dân hạng nhất vậy. Sau đó, chúng tôi từng đánh nhau trong một hội quán tư nhân. Lúc ấy tôi chưa giỏi đánh đấm, chỉ dựa vào sức mạnh, bị nó dùng Judo khóa chặt, chịu thiệt, bị làm nhục một phen. May mà Tiểu Đạo Lưu Manh đã nhanh chóng ra tay, giúp tôi đòi lại thể diện, đánh cho tên đáng ghét đó một trận ra trò.
Giữa chúng tôi là có thù hận, và thứ thù hận này không thể hòa giải.
Cũng chính từ lần đó, tôi và Lão Tiêu bắt đầu một tình bạn thật sự, không chút giữ lại.
Chúng tôi nhìn nhau, sau đó Kato Harasan bước từng bước lại gần tôi, khẽ gật đầu, nói: “Lục-kun, đã lâu không gặp. Không ngờ lại gặp được nhau trên phố Yangon thế này.”
Nhận xét
Đăng nhận xét